Ở vào lứa tuổi thanh
thiếu niên nhiều bạn trẻ thường thắc mắc không biết cuộc đời của mình sau này
sẽ như thế nào? Mình làm gì ở trên đời này? Mình giàu hay nghèo? Vợ
(hay chồng) mình là người thế nào? Đẹp hay xấu, mập hay ốm, nghèo hay giàu, có
tài gì không? vv... Những câu hỏi như vậy có thể sẽ lởn vởn trong đầu óc các
bạn trẻ luôn mà không ai có thể trả lời rõ ràng cho các bạn được. Thật sự thì
không phải chỉ những bạn trẻ mới thắc mắc về tương lai mà hầu hết mọi người đều
có những câu hỏi về ngày mai ở trong đầu, nhất là quý bà. Khách hàng đông nhất
của các thầy tướng số chiêm tinh là quý bà, ở Đông phương cũng như ở Tây
phương. Các ông thầy Tử Vi đẩu số, hay các thầy tướng số mà chúng ta thường
gọi chung là thầy bói, có mặt ở cùng khắp mọi nơi trên thế gian, có thể nói cho
chúng ta biết một số chi tiết về cuộc đời trong tương lai của chúng ta, hầu hết
chúng ta đều giả định (assume) như vậy. Nhưng thật ra đó chỉ là sự suy đoán mà
thôi. Lẽ dĩ nhiên là sự suy đoán như vậy có thể đúng mà cũng có thể sai. Nếu có
đúng thì cũng chỉ đúng một cách tổng quát và nhiều nhất thì cũng đến bảy tám
mươi phần trăm là cùng. Không ai có thể đoán trúng 100% tương lai của người
khác và cũng không ai có thể đoán trước tương lai một cách rõ ràng chi tiết và
thật sự cụ thể. Do đó mà sự tin tưởng ở thầy bói thầy tướng hay thầy Tử Vi cũng
có phần giới hạn, nhất là vào thời đại khoa học tiến bộ này. Bói toán mang
nhiều tính chất huyền bí, với ít nhiều mê tín, nên ít khi đi vào thế giới của
nhửng người vô thần, hay những người chỉ tin ở khoa học. Vì nó tựa trên trực
giác và tình cảm nhiều hơn là suy luận và lý trí cho nên nó thích hợp với quý
bà nhiều hơn với quý ông, và lẽ dĩ nhiên là nó gần với những xã hội còn tôn
sùng sự huyền diệu của đất trời hơn là những xã hội văn minh vật chất.
Người Việt Nam,
tuy đã tiến bộ văn minh theo khoa học Tây phương, nhưng còn nhiều tin tưởng ở
định mệnh. Hầu hết người bình dân Việt Nam,
từ Bắc vào Nam,
đều tin ở số mạng. Tin ở số mạng, họ cũng tin ở lời thầy bói, vì thầy bói có
thể nói cho người ta biết số mạng của mỗi người như thế nào. Tin vào định mệnh,
tức là tin rằng mỗi người có một số mạng, và số mạng đó đã được định sẵn. Về nợ
duyên chẳng hạn. Số có vợ đẹpï thì chắc thế nào cũng cưới được vợ có nhan sắc,
cũng như số có vợ giàu thì chắc sẽ cưới được vợ có nhiều của cải. Số có chồng
quyền quý thì chắc sau này sẽ gặp được chồng giàu sang có địa vị tốt ở trên
đời. Nếu thật sự duyên tình của mỗi người đã được định sẵn như vậy rồi thì mình
có thay đổi được không? Theo người xưa ở Đông phương cũng như bên trời Tây thì
không làm sao sửa đổi được. Nhà Nho thường nói : “Tử sinh hữu mạng, phú quý tại
thiên” tức là sống chết đều có số, giàu sang được là do bởi Trời chớ không phải
mình muốn mà được, thậm chí có nhà Nho cho rằng “nhất ẩm nhất trác giai do tiền
định” có nghĩa là từ cái uống cái ăn của mình, cái gì cũng đã được định sẵn cả.
Trong vấn đề hôn nhân thế nào cũng phải có duyên nợ với nhau mới được. Khi hai
người có duyên nợ với nhau thì hai người đó sẽ bị ràng buộc chặt chẽ với nhau
cả đời bởi một sợi dây vô hình nào. Họ sẽ phải gặp nhau, thương yêu nhau, thành
vợ chồng và ăn ở với nhau đến trọn đời. Sợi dây vô hình đó nhà Nho gọi là dây
tơ hồng của Nguyệt Lão. Câu chuyện sau đây cho thấy sự trói buộc của tơ hồng.
Ngày xưa có một anh học trò tên là Vi Cố. Một đêm kia Vi Cố đi chơi về, trông
thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ, tay cầm một nắm chỉ hồng. Lấy làm lạ, Vi Cố
bèn hỏi ông lão là ai và cầm nắm chỉ hồng đó để làm gì? Ông lão trả lời cho Vi
Cố biết ông là Nguyệt Lão còn nắm chỉ kia được gọi là tơ hồng. Vai trò của
Nguyệt Lão là xe duyên, nghĩa là dùng dây tơ hồng mà buộc chặt hai người với
nhau. Khi hai người được tơ hồng buộc chặt lại thì họ sẽ trở thành chồng vợ, ăn
ở với nhau đến trọn đời. Nghe vậy Vi Cố rất lấy làm thích thú nên hỏi thêm
Nguyệt Lão xem Nguyệt Lão đã xe duyên Vi Cố với ai? Nguyệt Lão cho biết là đã
xe duyên cho Vi Cố với cô con gái, con của mụ đi ăn xin ở ngoài cổng chợ. Câu
trả lời của Nguyệt Lão làm cho Vi Cố vô cùng phẩn uất. Tại sao lại có thể như
thế được? Một người học trò giỏi với một tương lai đầy hứa hẹn như Vi Cố thì
tại sao lại phải đi cưới con của một kẻ ăn xin hèn hạ về làm vợ? Vi Cố quyết
không chấp nhận duyên phần hẩm hiu đó. Vi Cố bèn nghĩ đến cách làm
thế nào để triệt tiêu người con gái kia đi. Thế là đêm hôm đó Vi Cố lo mài dao
chờ đến sáng hôm sau thi hành thủ đoạn. Hôm sau Vi Cố xách dao ra chợ tìm thấy
mẹ con mụ ăn xin, chém một dao vào cô con gái của mụ này rồi bỏ chạy trốn qua
một xứ khác sinh sống. Mươi năm sau Vi Cố thi đậu ra làm quan và đi cưới con
gái của một ông viên ngoại về làm vợ. Một hôm thấy trên vai vợ có vết sẹo Vi Cố
hỏi vì sao cô vợ lại có vết sẹo ở trên vai như vậy. Cô vợ nói thật cho Vi Cố
biết là ngày xưa cô là con của người đàn bà đi ăn xin ở ngoài cổng chợ. Một hôm
bỗng có kẻ lại chém cô. May mà cô không chết. Sau đó cô được ông viên ngoại
thương xin về làm con nuôi. Thành ra khi duyên đã định rồi thì dù Vi Cố có cố
tránh né cũng không thoát được.
Số mạng hay tiền định không phải chỉ có ở hôn nhân, duyên nợ mà thôi, mà còn có
ở trên mọi phương diện, mọi khía cạnh của cuộc đời. Trời định số của Tư Mả Ý
chưa chết thì dù Khổng Minh có tài giỏi đến đâu cũng không thể giết được Tư Mả
Ý. Rốt cuộc Khổng Minh phải buộc miệng than: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại
thiên”, có nghĩa là tính toán, mưu đồ là việc của con người, nhưng thành hay
không là bởi tại Trời mà thôi.
Câu chuyện sau đây cho thấy bàn tay định mệnh hết sức kắt khe của ông Trời.
Ngày xưa có một nhà sư trụ trì trong một ngôi chùa. Một hôm nọ nhà sư để ý thấy
cái đèn treo giữa chính điện làm như bị mất dầu nhiều quá. Nhà sư nghi ngờ là
có kẻ lấy trộm dầu của nhà chùa nên nhà sư bèn rình thử xem sao. Quả đúng như
nhà sư nghĩ, giữa khuya có hai người từ trên nóc chùa trổ xuống lấy cắp dầu của
chùa. Nhà sư bèn la lên, và hai người kia năn nỉ xin nhà sư tha tội cho họ. Nhà
sư hỏi họ là ai? Tại sao lại lấy cắp của nhà chùa? Hai người kia cho nhà sư
biết họ là hai vị thần làm sổ sách ở trên thiên đình. Gần đây phải làm sổ sách
nhiều quá nên phải làm cả ban đêm mới kịp, và vì làm ban đêm nữa nên thiếu dầu
và phải đi lấy trộm của nhà chùa. Nghe nói vậy nhà sư cũng lấy làm lạ, bèn hỏi
hai người kia làm sổ sách gì mà nhiều thế? Hai người kia nói nhỏ riêng cho nhà
sư biết là họ ghi tên vào sổ những người sẽ phải chết trong công cuộc nổi loạn
của Hoàng Sào sau nầy. Nhà sư hỏi có phải Hoàng Sào là đứa chăn trâu trước cổng
chùa của nhà sư đó không? Hai người kia trả lời :”Phải.” Nhà sư hỏi tiếp
vậy chớ kẻ nào là kẻ đứng đầu sổ những người sẽ chết trong cuộc nổi loạn đó.
Hai người kia buồn rầu trả lời :”Kẻ đó là nhà sư.” Tuy không tin lắm nhưng nhà
sư cũng phòng xa, cho nên hôm sau nhà sư tìm Hoàng Sào cho nó đủ thứ đồ ăn rồi
dặn nó rằng sau nầy khi nào nó làm loạn thì nó nhớ cho nhà sư hay để nhà sư tìm
nơi an toàn ẩn tránh. Hoàng Sào hứa sẽ làm đúng như lời nhà sư dặn bảo. Về sau
Hoàng Sào nổi loạn thật, và khi sắp sửa làm lễ tế cờ khởi loạn nó không quên
lời dặn của nhà sư. Nó tìm đến nói rõ cho nhà sư hay là ngày mai nó sẽ làm lễ
tế cờ nổi loạn chống triều đình. Nhà sư muốn đi tránh xa nhưng lại tiếc cảnh
chùa của mình. Nhìn trước sau thấy trước sân chùa có cái bộng cây khá kín đáo,
nhà sư bèn chui vào bộng cây trốn đỡ. Khi làm lễ tế cờ Hoàng Sào tuốt gươm ra
nhìn quanh quẩn tìm vật gì để chém nhác gươm đầu tiên làm lệnh. Thấy quanh đó
chỉ có cái cây to Hoàng Sào bèn thẳng tay bổ một nhác thật mạnh. Cái cây bị đứt
ngang và cái đầu của nhà sư cũng bị văng ra lìa khỏi cổ. Nhà sư là người chết
đầu tiên trong cuộc nổi loạn của Hoàng Sào đúng như lời tiết lộ trước của hai
vị thần ăn cắp dầu của nhà chùa. Trời đã định như vậy rồi thì không chạy đâu
cho khỏi.
Bên trời Tây xưa kia người ta cũng tin ở thứ định mệnh tuyệt đối như vậy. Câu
chuyện Oedipe trong thần thoại Hy Lạp là một bằng chứng. Ngày xưa vua thành
Athenes khi vừa sinh hoàng tử Oedipe thì bèn đi xin một quẻ ở đền Delphi xem đứa nhỏ sau nầy sẽ ra sao. Thần linh báo cho
biết là đứa nhỏ đó, tức là Oedipe, khi lớn lên sẽ giết cha nó và sẽ cưới mẹ nó
làm vợ. Nghe lời báo chẳng lành nhà vua bèn sai quần thần đem đứa bé vứt ngoài
đồng vắng cho nó chết đi. Oedipe bị bỏ rơi ngoài đồng nhưng nó không chết, nó
được bọn người chăn chiên đem về nuôi dưỡng. Lớn lên Oedipe mạnh mẻ, khôn ngoan
hơn người, nhưng nó không biết rõ nguồn gốc hoàng gia của mình. Một hôm trên
đường vào Athenes nó phải đối đầu với nhà vua từ phía trước đi tới. Nhà vua
buộc tội nó là đứa thất phu không biết tránh đường cho vua đi. Nó phẫn uất vì
thái độ kẻ cả của nhà vua. Một cuộc so kiếm xãy ra, và Oedipe đã nhanh tay giết
chết nhà vua. Oedipe đã giết chết cha ruột của mình mà không biết, đúng như lời
thần linh báo trước. Cùng lúc đó ở ngoài cửa thành Athenes có một con quỷ đầu
người mình sư tử , gọi là con Sphinx, xuất hiện. Sphinx cho biết là nó sẽ rời
bỏ chỗ đó nếu có người trả lời được đúng câu hỏi của nó, người nào trả lời sai
sẽ bị giết chết. Những người ra vào cửa thành đều bị nó giết chết vì họ
không trả lời đúng câu hỏi của nó đặt ra. Vì nhà vua đã bị giết chết thành ra
quyền nhiếp chính lúc đó ở trong tay người anh của bà hoàng hậu. Ông nầy treo
bảng thông báo là hễ người nào trả lời đúng để cho con quỷ Sphinx bỏ đi thì
người đó sẽ được làm vua ở Athenes và sẽ được cưới bà hoàng hậu. Oedipe tình
nguyện đi gặp Sphinx. Câu hỏi của Sphinx là: Con vật gì buổi sáng đi bốn chân,
buổi trưa đi hai chân, và buổi chiều đi ba chân? Oedipe trả lời : Đó là con
người. Buổi sáng là lúc nhỏ vì phải bò nên coi như đi bốn chân, buổi trưa là
lúc lớn lên thì đi hai chân, và buổi chiều tức lúc tuổi già thì phải chóng gậy
nửa nên kể như đi ba chân. Oedipe đã trả lời đúng, con Sphinx bỏ đi. Oedipe trở
thành vua xứ Athenes, và được cưới bà hoàng hậu làm vợ. Oedipe đã cưới bà hoàng
hậu tức mẹ ruột của mình làm vợ đúng như lời báo của thần linh trước đây. (Nhà
phân tâm học Sigmund Freud đã dùng tên Oedipe để đặt tên cho cái mặc cảm mà ông
đã khám phá ra về tình cảm của con cái đối với cha mẹ. Theo ông con gái thương
cha và ghen ghét với mẹ và con trai thương mẹ và ghen ghét với cha bởi trong vô
thức người ta mang khuynh hướng tự nhiên đó mà ông gọi nó là mặc cảm Oedipe.
Freud đã mượn câu chuyện thần thoại này để nói về mặc cảm nói trên).
Thuyết định mệnh tuyệt đối, khắt khe theo cái nhìn của con người thuở xưa như
đã thấy trên đây không dành cho con người ở trên cõi đời này một chút tự do
nào. Con người cũng chẳng có chút giá trị gì cả vì nó chỉ là trò chơi của định
mệnh, một thứ định mệnh hết sức khắt khe, đưa đẩy con người đến chỗ tột cùng
của đau khổ mà không do lỗi của mình, cũng không có một chút quyền vùng vẫy
tránh né. Nhà sư kia có tội gì đâu, tại sao phải chịu chết trước nhất trong
cuộc nổi loạn của Hoàng Sào? Oedipe có tội gì? Tại sao định mệnh bắt Oedipe
phải giết chính cha mình và cưới chính mẹ mình làm vợ? Chúng ta thấy thật là
phi lý cho thứ định mệnh tuyệt đối khắt khe đưa đến thân phận đau đớn vô nghĩa
(fatalism) của con người. Ai có quyền lực và khả năng ấn định trước định mệnh
khắc nghiệt đó cho con người? Và tại sao lại quá khắc nghiệt như vậy cho một số
người này trong khi đó lại quá chiều đãi một số người khác? Tại sao cho một số
người giàu có sang trọng quá nhiều trong khi đó lại bắt những kẻ khác phải chịu
cảnh nghèo đói khổ sở quá sức? Tại sao lại cho một số người có nhan sắc có sức
khỏe và ngược lại một số những người khác xấu xí, bệnh tật ốm đau? Tại sao Trời
cho một số người tài giỏi, thông minh, và một số người khác đần độn, bất tài,
ngu ngốc? Nếu có Thượng Đế, và nếu Thượng Đế đã làm công việc đặt để ra số phận
của mỗi người theo như chúng ta đã thấy trên đây thì Thượng Đế có bất công
không? Ngay cả việc Thượng Đế tự mình sinh ra con người ngoài ý muốn của con
người cũng đã là một bất công phi lý rồi. Có ai muốn mình được sinh ra không?
Nói một cách khoa học thì không ai muốn cả vì trước khi sinh ra đời mình đã có
hiện hữu đâu để mà muốn. Cho nên một nhà Nho trước kia đã nổi loạn chống lại
mệnh Trời qua bài thơ sau đây:
“Tích ngã vị sinh thì,
Minh minh vô sở tri.
Thiên công hốt sinh ngã,
Sinh ngã phục hà vi?
Vô y sử ngã hàn,
Vô phạn sử ngã cơ.
Hoàn nhỉ thiên sinh ngã,
Hoàn ngã vị sinh thì.” (Khuyết danh)
(Ý nghĩa của bài thơ này là:
Ngày xưa, trước khi tôi bị sinh ra đời,
Mịt mù đen tối, tôi nào biết chi đâu.
Bỗng nhiên Trời sinh tôi ra trên đời này,
Trời sinh tôi ra để làm chi?
Không quần áo chi cả khiến cho tôi phải lạnh,
Không cơm ăn khiến cho tôi phải đói.
Tôi xin trả lại cho ông Trời cái việc Trời sinh ra tôi,
Và xin Trời hãy trả lại cho tôi cái trạng thái lúc tôi chưa sinh ra đời.)
Bị
sinh ra đời đã là một chuyện ngoài ý muốn của con người rồi. Sinh ra để chịu
đói, chịu rét, chịu mọi thứ khổ sở thì còn ngoài ý muốn của con người nhiều hơn
nữa. Vậy mà con người vẫn bị sinh ra, vẫn phải chịu tất cả nỗi khổ đau ở trên
đời. Nếu muốn mà được thì không ai muốn sinh ra đời để chịu khổ. Nếu muốn mà
được thì chắc ai cũng muốn mình được sinh ra trong gia đình sang trọng giàu có,
ở trong một xã hội tiến bộ văn minh, đầy đủ tiện nghi, trong thời đại hòa bình
thịnh vượng nhất ở trên thế gian nầy. Chớ đâu có ai muốn sinh ra trong một gia
đình nghèo khổ ở một xã hội chậm tiến, vào một thời kỳ loạn lạc chiến tranh!
Tính
cách phi lý trong thuyết định mệnh khắt khe tuyệt đối trên đây khiến cho một số
các nhà tôn giáo và triết lý khác không chấp nhận. Một số nhà hiền triết đã
nhìn sự kiện định mệnh một cách khác hơn. Ấn giáo (Hinduism), Phật giáo và đạo
Kỳ Na (Jainism) quan niệm con người có tự do, có nhiều kiếp sống, có luật nhân
quả. Mọi người đều có quyền tự do và tự quyết (free will). Mỗi người tự chọn
lựa, tự quyết định những hành động của mình không do một quyết định nào từ bên
ngoài. Chính hành động đó là nguyên nhân (hay nghiệp theo chữ của nhà Phật) sẽ
đưa đến những hậu quả của nó. Hậu quả đó có thể xảy ra liền trong kiếp này hay
có thể xảy ra trong kiếp khác. Thành ra định mệnh không gì khác hơn là hậu quả
của những gì mình đã tạo ra (nghiệp) trước đó. Bạn cố gắng tu hành, làm nhiều
việc thiện trong kiếp này là bạn đã tạo dựng một định mệnh tốt đẹp cho kiếp sau
của bạn vậy. Thuyết định mệnh theo ý nghĩa đó đã được các nhà nho tóm tắt trong
câu :”Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị; Dục tri lai thế quả, kim
sinh tác giả thị.”(có nghĩa là: muốn biết trong kiếp sống trước mình đã làm
những gì thì hãy nhìn xem hiện tại trong kiếp này mình đang được hưởng những
gì; Muốn biết trong kiếp sau mình sẽ được hưởng nhử ng gì thì hãy nhìn xem
trong kiếp sống hiện tại mình đang làm được những gì) . Theo thuyết này thì con
người có nhiều kiếp sống: kiếp trước, kiếp này, và kiếp sau. Mỗi kiếp
sống gồm có hai phần: một phần là kết quả của kiếp trước và một phần là nguyên
nhân của kiếp sau. Thí dụ anh A được sinh ra trong một gia đình giàu có sang
trọng, lại được thông minh học giỏi nên anh A học thành tài đỗ đạt cao, có địa
vị lớn trong xã hội, hưởng nhiều may mắn hạnh phúc sung sướng trên đời. Nhưng
vì quá giàu sang danh vọng anh A thường khinh thường người nghèo khó, lại nhiều
khi có những hành động hà hiếp kẻ dưới tay, và đôi khi không tránh được một số
những việc làm độc ác cốt để làm giàu thêm cho cá nhân mình.
Trong kiếp sống
hiện tại của anh A ta thấy có hai phần: một phần là những gì anh đang thụ hưởng
và một phần khác là những gì anh đang làm. Phần anh đang được thụ hưởng là phần
được sinh ra trong một gia đình giàu có sang trọng, lại thông minh, được may
mắn thành công và hưởng nhiều hạnh phúc sung sướng ở đời. Phần này là kết quả
của những việc làm có thể là rất tốt, rất thiện, rất đạo đức của anh hồi kiếp
trước. Tuy nhiên phần anh đang làm trong kiếp này như khinh người, hiếp đáp kẻ
khác, có những hành động độc ác, thì những việc làm xấu xa đó là nguyên nhân
của một kiếp sau có thể là sẽ rất hèn hạ khổ đau. Kiếp sau có thể anh A sẽ phải
sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại có thể không đủ khôn ngoan, không có cơ
hội học hành, phải sống cuộc đời nghèo khổ bị nhiều người khinh bỉ, vv..... Tóm
lại theo thuyết này thì con người có hoàn toàn tự do, và có đầy đủ trách nhiệm
về cuộc sống của mình. Mình làm tốt mình được hưởng kết quả tốt, mình làm ác
mình sẽ phải gánh lấy hậu quả xấu xa trong tương lai. Tốt hay xấu là hoàn toàn
do nơi mình mà thôi chớ không có một áp lực nào từ bên ngoài. Thuyết này được
nhiều người chấp nhận và áp dụng ở ngoài đời. Trong thực tế ai cũng biết là khi
ta đối xử tử tế, lịch sự, tốt đẹp đối với những người chung quanh ta thì dĩ
nhiên ta cũng sẽ được nhiều người đối xử tử tế, lịch sự, và tốt đẹp lại. Ngược
lại nếu ta có những hành vi không ra gì đối với những người chung quanh ta thì
khó mà mong rằng người ta thương mến, đối xử tốt với mình.
Thực tế cho thấy
không ai chịu tốt bụng để cứ đối xử tốt đẹp mãi với một người đã có lối xử sự
không ra gì đối với mình. “Bánh sáp đi, bánh quy lại” cũng như “ăn miếng thì
trả miếng”, tức là”oeil pour oeil, dent pour dent” như người Pháp nói. Mặt
khác, thuyết này hoàn toàn trái ngược với thuyết tiền định khắc nghiệt ở bên
trên. Hai thuyết này là hai thái cực, hoàn toàn trái ngược nhau. Một bên thì
cho rằng con người không có một chút tự do, một chút quyền nào cả, tất cả đều
do tiền định; còn một bên thì cho con người có hoàn toàn tự do hoàn toàn có
quyền lựa chọn quyết định mọi hành động của mình không có ai hay cái gì ở ngoài
chen vào.
Một
số tư tưởng gia khác đã đưa ra một thuyết thứ ba để dung hòa bằng cách bao gồm
cả hai thuyết trên. Thuyết thứ ba này cho rằng “Có Trời mà cũng tại ta” như
Nguyễn Du đã viết trong Đoạn Trường Tân Thanh. Trời định bao nhiêu, ta định bao
nhiêu không thấy nói. Chỉ thấy nói “Đức Năng Thắng Số” hoặc làm phải, làm phước
thì có thể cải số được. Thuyết này có vẽ hữu lý đối với phần đông người đời. Nó
có vẽ thực tế và có thể đáp ứng đúng lòng mong mỏi của nhiều người. Ai cũng
mong muốn là mình có thể làm chút gì đó để xin Trời xét lại, thương cho mình và
cho mình được sống cuộc đời đỡ khổ hơn, hoặc sung sướng hơn. Thậm chí có người
còn có thể nói :”Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều,” (Nguyễn Du) có
nghĩa là xưa nay quyết định của người ta cũng thắng được quyết định của Trời cũng
nhiều. Thật sự làm sao mà biết được trường hợp nào là trường hợp “nhân định
thắng thiên”? Và người ta thắng được quyết định của Trời (định mệnh) bao nhiêu
lần mà gọi là nhiều? Truyện cổ có kể chuyện anh học trò mấy lần cải số của mình
nhưng những lần cải đổi đó đều do Trời cho sửa lại số của anh ta chớ không phải
là tự anh ta làm trái với số Trời đã định mà có thể thắng số Trời được. Chuyện
kể có một anh học trò kia hằng ngày trên đường đi học phải đi ngang qua một con
chó đá. Hôm nọ khi anh ta đi ngang qua thì thấy con chó đá hả miệng cười với
anh ta. Anh học trò lấy làm lạ bèn hỏi: “Hằng ngày ta đi ngang đây chưa bao giờ
ta thấy nhà ngươi cười cả, sao hôm nay nhà ngươi lại cười với ta vậy?” Chó đá
trả lời: “Hôm nay tôi cười là để mừng ông vì ông vừa được Trời cho ghi tên ông
vào danh sách những người thi đậu trong kỳ thi tới. Được vậy là nhờ ông học
hành siêng năng lại ăn ở hiền lành nên Trời thương mà cho như vậy.” Anh học trò
nghe vậy lấy làm mừng rỡ bèn về thưa lại với cha mình. Ông cha nghe con mình sắp
sửa thi đậu làm quan nên bắt đầu tỏ ra hống hách với xóm làng. Dân làng phẫn
uất lắm nhưng không dám nói vì sợ lãnh hậu quả không tốt khi người con ông kia
thi đậu thật. Tuy nhiên việc làm xấu xa của ông cha đã làm cho Trời bực mình.
Trời liền thay đổi ý, cho sửa số ông con lại là thi hỏng chớ không phải là thi
đậu nữa. Liền sau khi Trời cho sửa số lại thì con chó đá không thèm cười với
anh học trò nữa. Thấy chó đá bổng trở lại lãnh đạm với mình, anh học trò hỏi nó
tại sao hôm nay nó không cười mừng anh ta nữa? Chó đá trả lời là vì người cha
của anh học trò hống hách, làm nhiều điều tội lỗi nên Trời đã bôi tên anh học
trò trong sổ những người thi đỗ rồi. Anh học trò nghe vậy buồn rầu về thưa lại
với cha. Ông cha nghe nói rất lấy làm hối hận. Hai cha con liền lo tu tĩnh, làm
lại việc thiện, tạo nhiều phước đức để chuộc tội. Họ làm như vậy một thời gian
sau thì Trời lại thương tình nên cho cải đổi số anh học trò một lần nữa để cho
anh ta thi đậu trong khóa tới nữa. Một hôm đi ngang chó đá anh học trò thấy chó
đá bắt đầu cười lại với anh ta. Hỏi ra thì biết là nhờ ở sự ăn năn tu tỉnh làm
nhiều điều phước đức của hai cha con mà Trời thương và cho sửa đổi số lại một
lần nữa. Lần nầy anh học trò cố giữ kín tin nầy, không dám cho ông bố biết. Ông
cha không hay biết gì cứ tiếp tục ăn năn, tiếp tục làm việc thiện cho đến ngày
ông con thi đỗ thật sự và ra làm quan cho triều đình. Qua câu chuyện này ta
thấy người ta vẫn quan niệm rằng số mạng vẫn do Trời định, chớ con người chẳng
có sửa đổi gì được. Con người chỉ có thể làm lành, cầu khẩn để xin Trời sửa số
lại mà thôi. Quyết định cuối cùng cũng vẫn là Trời. Phần “tại ta” cũng có nhưng
vẫn phải tùy thuộc rất nhiều ở Trời. Thành ra câu “đức năng thắng số” hay “nhân
định thắng thiên” thật sự không đúng, đáng lý ra phải nói “đức có thể động lòng
Trời để Trời cho sửa số lại” mới
phải.
Khoa đẩu số của Tây phương cũng như khoa Tử Vi ở Đông phương đều nhận là
có định mệnh nhưng định mệnh không do Thượng Đế hay ông Trời sắp đặt mà do hệ
thống tinh đẩu phân bố, phối trí lúc con người được sinh ra đời. Hệ thống tinh
đẩu này có ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của mỗi người. Khoa đẩu số Tây
phương thì tựa trên ngày tháng sinh của mỗi người mà định ra 12 phạm trù đẩu số
là Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius,
Capricorn, Aquarius, và Pisces. Theo thời gian tác động của các hành tinh như
Jupiter, Saturn, Sun, Moon,...trên các loại tuổi kể trên đưa đến những vận hạn
hên xui may rủi cho mỗi người. Các nhà chuyên môn về đẩu số sẽ tựa trên sự vận
chuyển và tác động của các hành tinh mà giải đoán số phận của con người. Khoa
Tử Vi của Đông phương thì tựa trên giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh
của mỗi người mà phân bố các sao làm thành lá số Tử Vi và các nhà chuyên môn về
Tử Vi sẽ tựa trên lá số đó mà giải đoán số mạng của mỗi người. Tử Vi có tất cả
110 (hoặc 111) vì sao được phân bố trên 12 ô (gọi là 12 cung) tùy theo ngày giờ
sinh, mỗi sao có một ý nghĩa, một tác động trên vận hạn hay trên một khía
cạnh nào đó của một đời người. Những sao đó có thật hay không? Nếu có
thật thì tên khoa học của nó là gì, nó ở vị trí nào trong không gian, sự vận
hành của nó thế nào?
Tại sao nó gây ảnh hưởng như vậy khi nó ở vị trí này và ảnh hưởng khác hơn khi
ở vị trí khác? Thật là phức tạp, thật là rắc rối khi đi sâu vào Tử Vi. Nó không
giản dị như nhiều người tưởng. Tựa trên căn bản nào mà người xưa thiết lập ra
khoa đẩu số này? Ở đâu mà có những vì sao chính như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên
Tướng, Vũ Khúc, Liêm Trinh..., ở đâu mà có những sao như Hóa Quyền, Hóa Lộc,
Hóa Khoa, Thiên Khôi, Thiên Việt, Đào Hoa, Hồng Loan.... Tại sao đã có Thái
Dương, Thái Âm mà còn thêm Thiếu Dương, Thiếu Âm, có Đại Hao lại còn thêm Tiểu
Hao? Tại sao lại thường có đôi như Địa Không-Địa Kiếp, Kình Dương-Đà La, Hỏa
Tinh-Linh Tinh, Thiên Khôi-Thiên Việt, Tả Phù-Hữu Bật, Ân Quang-Thiên Quý, Tam
Thai-Bát Tọa...? Thật ra nếu ta đi tìm căn bản khoa học cho khoa Tử Vi thì ta
sẽ thất vọng ngay. Nhưng nếu ta dùng trực giác để tìm hiểu và chiêm nghiệm thì
ta thấy nó có ý nghĩa đặc biệt liên hệ mật thiết với vũ trụ quan trong triết
học Trung Hoa ngày xưa. Các vì sao trong Tử Vi đều có tính cách tượng trưng.
Mỗi sao mang một số ý nghĩa liên hệ tới một số sự việc thường xảy ra trong đời
sống của con người. Các sao lại vận chuyển theo các chu kỳ lớn nhỏ, ăn khớp với
nhau, bổ túc lẫn nhau, hoặc xung phá với nhau, gây ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho
mỗi người. Có vận chuyển theo chu kỳ tức là có lúc lên lúc xuống, lúc may lúc
rủi, lúc thành công lúc thất bại, lúc đắc lúc ế. vv. Cứ theo vận chuyển,
theo chu kỳ, năm tuổi chẳng bao giờ cũng khá hơn năm tuổi lẽ (tính tuổi ta),
như những năm 18, 20, 32, 34 tuổi ...khá hơn những năm 19, 21, 31,
33...Những năm chia chẳng cho 4 sau khi trừ bớt 1 đều là những năm tương đối
khá tốt vì là những năm tam hạp. Nhưng theo kinh nghiệm của người đời thì đây
là những năm có thể xấu vì đó là những năm tuổi của mình. Những năm gọi là năm
tuổi thì theo kinh nghiệm của ông cha đều là những năm có rắc rối không nhiều
thì ít. Đó là những năm 13, 25, 37, 49, 61, 73, 85, và 97. Thật ra không phải
tất cả những năm tuổi đều xấu, nó còn tùy ở những sao khác trong Tử Vi của mỗi
cá nhân.
Nếu tựa trên bản số đầy đủ (có đủ giờ, ngày, tháng, năm sinh) với 110 vì
sao thì các nhà chuyên môn về khoa Tử Vi có thể cho biết khá nhiều chi tiết về
tính tình, về gia đình, nghề nghiệp, tiền của, con cái, cùng những lúc lên
xuống trong cuộc đời của một người. Người ta có thể đi sâu vào từng thời kỳ (10
năm) hay đại hạn, từng năm hay tiểu hạn, từng tháng tức nguyệt hạn, hay từng
ngày tức nhật hạn. Xem cẩn thận và đầy đủ cho một người như vậy rất công phu,
đòi hỏi phải để nhiều thì giờ nghiên cứu, nghiền ngẫm. Thường mỗi đầu năm các
nhà bói toán hay cho biết những nét chính rất tổng quát về vận số của những
người cùng một tuổi với nhau. Khi đoán tổng quát như vậy người ta không tựa
trên bản số đầy đủ 110 vì sao được. Người ta chỉ có được khoảng 50 phần trăm số
sao đó thôi, và 50 phần trăm này lại là 50 phần trăm ít quan trọng hơn là số 50
phần trăm không có được (vì thiếu giờ, ngày, và tháng sinh). Cho nên phần đúng
của lối đoán tổng quát này cũng không được chính xác lắm. Có thể nói là bị đau,
nhưng đau nhiều hay ít, nặng hay nhẹ, có trị được không thì thật khó nói. Có
thể thấy có may mắn về tình duyên, nhưng nhiều hay ít, có đưa đến kết quả gì không
thì khó mà nói được cho chính xác.
Nền tảng của Tử Vi và đẩu số Tây phương là sự liên hệ mật thiết giữa một số các
tinh đẩu trên trời và vận mệnh của con người. Theo cái nhìn của nhà đẩu số thì
con người có một định mệnh và định mệnh đó do vũ trụ tự nhiên đại diện bởi các
vì sao quyết định. Tuy chấp nhận có định mệnh nhưng khoa đẩu số không quan niệm
định mệnh một cách khắt khe bất biến như thuyết định mệnh tuyệt đối khắt khe đã
thấy ở phần đầu. Tử Vi vẫn cho con người một chút co giãn trong vấn đề định
mệnh. Các nhà Tử Vi chuyên môn vẫn khuyên người ta làm lành để được tai qua nạn
khỏi, hoặc được giảm bớt những sự không may. Đây cũng là một hình thức tin
tưởng là vừa có định mệnh mà cũng vừa có phần tham dự của con người. Có một ít
người cho rằng Tử Vi giống như một khoa học hơn là loại bói toán có tính cách
dị đoan. Thậm chí đã có người muốn áp dụng phương pháp toán học hay thống kê
học vào khoa Tử Vi. Ông Nguyễn Phước Lộc, trong quyển Tử Vi hàm số của ông, đã
quan niệm Tử Vi như một hàm số theo dạng f(X)=Y. Thật sự nếu chúng ta biết đúng
và tìm được cách tính điểm đúng các vì sao khi phối hợp lại với nhau thì chúng
ta có thể phát biểu thành phương trình multiple regression trong khoa thống kê
học để tìm ra hậu quả được. Tuy nhiên cho đến giờ phút này khi chưa có một đo
lường chính xác về các ảnh hưởng của các vì sao và cũng không có định luật nhất
định phát biểu thành công thức nên chúng ta chưa có thể xem Tử Vi như một khoa
học được.
Trở lại vấn đề định mệnh ta thấy ngoài các thuyết kể trên, một vài khoa
học cũng quan niệm có một loại tất định (determinism) trong số phận con người.
Khoa sinh vật học cho biết mốt bộ phận trong nhiễm sắc thể kiểm soát sự di
truyền gọi là gene là đầu mối của thân phận một người. Người ta khôn ngoan hay
ngu đần, người ta mạnh khỏe hay bệnh hoạn là do cái gene mà ra, mình có muốn
cũng không được. Đâu có ai muốn bị cao máu hay tiểu đường hay bệnh tim đâu,
nhưng mình có thể mang mầm mống của những thứ bệnh đó trong cái gen e của mình
vì trong gia đình đã có người có bệnh như vậy rồi. Tính cách di truyền trong
cái gene là một hình thức tiền định rồi vậy. Khoa tâm phân học cũng dành cho sự
tất định một chỗ đứng khá quan trọng. Những hành đông của chúng ta có vẽ như là
những hành động có ý thức, có cân nhắc, tính toán và quyết định, nghĩa là có tự
do của mình. Nhưng theo các nhà tâm phân học thì thật sự phần lớn các quyết
định là do vô thức mà ra. Trước kia ông Nguyễn Bách Khoa đã áp dụng phân tâm
học để phân tích hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều xem đó như là một
hành động do vô thức chi phối. Đó là hành động rất đúng với lời nói của Nguyễn
Du, một thứ hành động do “ma đưa lối quỷ dẫn đường” chỉ có thể cắt nghĩa được
bằng ảnh hưởng của vô thức mà thôi, một vô thức với dẫy đầy những hình ảnh lưu
lạc,gian truân, phong trần, bạc mệnh.
Tất
cả những thuyết trên, kể cả các thuyết khoa học đều không cho ta biết chắc có
hay không có định mệnh. Rốt cuộc chúng ta vẫn thấy mơ hồ không biết thật sự có
tiền định hay không? Thật sự có định mệnh hay không? Và nếu có định mệnh
thì định mệnh của con người do ai định? Và làm sao để biết được định mệnh? Đó
là những câu hỏi gắn liền với thân phận làm người từ xưa đến giờ. Bao giờ loài
người còn, thân phận làm người không thay đổi, thì những câu hỏi trên đây vẫn
còn. Và đó là những câu hỏi không bao giờ có câu trả lời dứt khoát.