Thứ Tư, 21 tháng 8, 2013

19 ĐIỀU VỊ HÀNG XÓM TRIỆU PHÚ KHÔNG NÓI CHO BẠN NGHE

Trở nên giàu có và không còn phải lo nghĩ về chuyện tiền bạc là mong ước, mục tiêu của rất nhiều người. Tuy nhiên không nhiều người thành công bởi đa số họ đã bỏ qua một vài trong số 19 điều mà các triệu phú thường làm.
Để trở nên giàu có, sung túc, ngoài việc phải lao động một cách chăm chỉ thì nhận thức về tiền bạc và cách ứng xử với nó là vô cùng quan trọng. Với quan điểm này, tờ báo chuyên về các vấn đề tài chính Bussiness Insider của Mỹ mới đây đã giới thiệu bài viết với tiêu đề: “19 điều vị hàng xóm triệu phú không nói cho bạn nghe” của chuyên gia tư vấn tài chính Len Penzo.
Đó là những chi tiết rất thú vị, thiết thực về con đường để trở thành người tự do về tài chính, không còn phải lo chuyện cơm áo gạo tiền.
Một triệu phú thực sự hiểu biết về tài chính sẽ không phải người dễ nhận ra, bởi vì:
1. Ông ta luôn chi tiêu ít hơn số tiền kiếm được. Trên thực tế, “câu thần chú” của ông ấy là, về dài hạn, sẽ tốt hơn cho bạn nếu bạn phấn đấu trở thành người giàu có một cách thầm lặng, hơn là nghèo mà giả như không.
2. Ông ta biết rằng kiên nhẫn là đức tính tốt. Hầu như chắc chắn không ai có thể phút chốc trở thành triệu phú. Và nếu bạn đồng ý với quan điểm này, sự giàu có của bạn sẽ được tích tụ dần dần bằng cách tiết kiệm tiền bạc qua nhiều thập niên.
3. Khi bạn ghé thăm ngôi nhà giản dị của người hàng xóm ấy, bạn có thể thấy họ uống cà phê loại thường thay vì những ly Starbucks hạng sang. Và nếu muốn đi nhờ xe, rất có thể bạn sẽ được cùng đi trên chiếc ô tô có tuổi đời đến 10 năm. Bạn nghĩ rằng những điều đó khiến ông ấy trở nên rẻ rúng? Cứ thử hỏi ông ấy xem. (Ông ấy không quan tâm đâu).
4. Hàng tháng, ông ấy sẽ thanh toán mọi khoản nợ thẻ tín dụng. Bởi ông ấy đủ thông minh để hiểu rằng nếu mình không thể thanh toán bằng tiền mặt cho một thứ gì đó, ông ấy sẽ không mua nó.
5. Ngay từ sớm, ông ấy đã nhận ra rằng tiền không mua được hạnh phúc. Nếu bạn đang tìm kiếm cõi niết bàn, bạn cần phải tập trung đạt cho được sự tự do về tài chính.
6. Ông ấy không bao giờ quên rằng tự do tài chính là một trạng thái tâm lý đến từ việc không mắc khoản nợ nào. Trên tất cả, nó có thể đạt được cho dù mức thu nhập của bạn là bao nhiêu.
7. Ông ấy biết rằng việc tìm một công việc làm thêm không chỉ giúp tài khoản tại ngân hàng tăng nhanh hơn mà còn khiến bạn bận rộn hơn. Và khi đã bận rộn, bạn sẽ khó tiêu xài những gì mình đã có hơn.
8. Ông ấy hiểu rằng tiền giống như một đứa trẻ tập đi; nó không thể tự quản lý chính nó. Và trên hết bạn không thể mong đợi tiền của mình lớn mạnh và trưởng thành mà không có sự quản lý đáng tin cậy.
9. Ông ấy rất tin tưởng vào nguyên tắc luôn trả lương cho bản thân đầu tiên. Trả lương cho bản thân đầu tiên là một nguyên lý thiết yếu của tài chính cá nhân, và là một cách tốt để tích lũy tiền tiết kiệm và thực hiện kỷ luật tài chính.
10. Mặc dù bạn có thể giàu lên bằng cách dành cả đời làm những việc bạn không thích, vị triệu phú luôn tự hỏi vì sao bạn lại làm vậy. Bởi cuộc đời là quá ngắn ngủi.
11. Ông ấy biết rằng thất bại trong việc lập kế hoạch chẳng khác nào lập kế hoạch cho thất bại. Ông cũng hiểu rằng một vài triệu phú có thể đạt tới các cột mốc tài chính mà không hề lập kế hoạch vươn tới nó, nhưng đó là bởi họ quá may mắn. Bởi vậy việc chỉ tuyên bố bạn muốn tự do về tài chính là chưa đủ.
12. Khi cần phải đặt ra mục tiêu tiết kiệm tiền, ông ấy sẽ không ngại phải đưa ra những con số lớn. Thành công về tài chính đòi hỏi bạn phải có một tầm nhìn lớn hơn nhiều so với những gì bạn hiện đang có.
13. Cùng với thời gian, ông ấy nhận ra rằng lao động chăm chỉ có thể giúp bù đắp tổn thất cho nhiều sai lầm về tài chính, và bạn sẽ không thể tránh những sai lầm về tài chính.
14. Ông ấy nhận ra rằng khi điều đó xảy ra, sẽ là kẻ ngốc nếu bạn không mua bảo hiểm bản thân trước những rủi ro. Hãy nhớ rằng nguy cơ phá sản luôn cận kề, và có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như: người trụ cột trong gia đình qua đời, ly hôn, hoặc bị mất khả năng lao động dẫn đến mất việc.
15. Ông ấy hiểu rằng thời gian là đồng minh của người trẻ tuổi. Ông ấy cũng đủ may mắn để bắt đầu tiết kiệm từ tuổi 20 để có thể tận dụng tối đa lợi thế từ sức mạnh của lãi suất kép đối với khoản tiền tiết kiệm.
16. Vị hàng xóm triệu phú cũng biết rằng bạn không thể chi tiêu những gì bạn không nhìn thấy. Bạn nên sử dụng dịch vụ trích lương tự động để tích lũy tiền tiết kiệm và nghỉ hưu. Khi lương tăng lên, bạn cũng sẽ tăng số tiền trích từ lương này.
17. Cho dù ông ấy có công việc yêu thích, vị hàng xóm triệu phú cũng không phải làm việc nữa bởi mọi thứ ông có đều không phải mua trả góp và vẫn luôn là vậy trong những năm qua.
18. Ông ấy sẽ không “rung động” khi bạn lái một chiếc xe hạng sang có giá cao ngất và sống trong căn biệt thự quá lớn cho gia đình với chỉ 4 người.
19. Sau 6 tháng hỏi han, ông ấy cuối cùng cũng sẽ không đợi bạn hoàn trả chiếc kéo tỉa cây mà bạn mượn. Bởi ông ấy đã tự mua một cây kéo khác từ tháng trước mà không cảm thấy có gì khó khăn. Đơn giản bởi ông ấy có tiền để mua nó.

Thứ Bảy, 25 tháng 5, 2013

Giải thích bí ẩn trên dòng Sông Tô Lịch

Tóm lược sự việc như sau:
Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú - Phường Nghĩa Đô - Quận Cầu giấy - HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều,tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng. 

Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ;. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít. 

Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kịên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12,là đội đă trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng. 

Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch: Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết. 

Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên. 

Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc. 

Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.( Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam - Người viết ). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết : Đài truyền hìnhcó phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu. 

Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng trấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự trấn yểm này để làm gì ?. Theo thiển ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm. 

Người viết xin được chứng minh như sau : 

Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự trấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết " Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ), Sư Vạn Hạnh.. 

Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi. 
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian. 

Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ . 

Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất. 

Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là " Truyền thuyết Thành Cổ Loa " Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong". 
Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa ( Theo đường chim bay chỉ vài chục km ). 

Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?. 

Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp . 

Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biền chấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biền còn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch. 

Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao Biền. 

Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biền đời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biền trấn yểm. 

Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biền khi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt ... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biền đã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm. 

Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau : 

1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền -Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biền đã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biền thực hiện chấn yểm. 

2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp. 

3. Cao Biền đã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học. 

Đến đây ta đặt ra câu hỏi : 

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ? 

2. Tại sao sau khi Cao Biền trấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên. 

3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la ? 

4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ?. Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ?. 

Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai. 
Người viết xin được lần lượt lý giải các vấn đề trên như sau : 

1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 

-Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?. 

Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hìnhmà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh , Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước ( nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. 

Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hìnhdung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le ...Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền ( vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy ) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại ( mặc dù chỉ là con mương nhỏ ). Theo người viết,nếu Cao Biền trấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định :Cao Biền có sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biền chính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau. 

Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu ", hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu. 

Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc. 

2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên ?. 

Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại. 

Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biền gặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc ...Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa... 

Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước. 

3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 :Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung.Số phận của Long mạch sẽ như thế nào ? 

Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó.Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý,bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử.Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta . 

Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao biền và những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện );các hiện tượng trấn yểm của Cao biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài ,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )... 
Để có thể hiểu rõ tính chất và hậu quả của việc trấn yểm,ta cần phải biết rõ lý thuyết trấn yểm và từ đó mới có thể khắc phục được tác hại của nó.Từ xưa,việc trấn yểm được coi là Thuật bí truyền của các thày Địa lý ,không được tiết lộ ra ngoài,sợ lộ Thiên cơ.Do vậy mà lý thuyết về sự trấn yểm đến tận giờ phút này vẫn được coi là một cái gì đó huyền bí,ma thuật,không có tài liệu nào được truyền ra.Tuy nhiên theo nguyên lý Thiên -Địa -Nhân là một,ta có thể dùng Lý thuyết của Đông Y để tìm hiểu vấn đề này.Mặt khác,Thuyết Âm Dương,Ngũ hành với cơ sở là Hà đồ,Lạc thư là một công thức siêu Vũ trụ có thể lý giải tất cả các vấn đề từ Vi mô tới Vĩ mô,nó là Công thức Tổng quát của Vũ trụ mà khoa học ngày nay đang ao ước ,tìm kiếm.Tôi sẽ xin trở lại vấn đề này khi có dịp.Bây giờ ta trở lại Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt,Lạc là một sự ứng dụng rất cụ thể và phong phú của Thuyết Âm Dương,Ngũ hành.Lý thuyết của Đông Y về Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc rất phức tạp và có từ rất lâu đời,cuốn sách đầu tiên có thể là cuốn Hoàng đế nội kinh,có thời điểm khoảng 5000 năm.Tôi chỉ xin dẫn giải những gì cần thiết để chứng minh cho luận điểm của mình. 

HỆ THỐNG KINH, MẠCH, HUYỆT, LẠC. 

1/HUYỆT : Là nơi tập trung Khí huyết của Tạng phủ.Là nơi tập trung các cơ năng hoạt động của Tạng phủ.Mỗi Tạng phủ có các đường Kinh,Mạch,Lạc nằm ở những nơi cố định.Những Huyệt lớn gọi là Khổng Huyệt.Những Huyệt bình thường gọi là Huyệt. Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc làm nhiệm vụ dẫn cơ năng Tạng phủ từ trên xuống dưới,từ ngoài vào trong,từ dưới lên trên,từ trong ra ngoài,trong toàn bộ cơ thể con người.Trong cơ thể có một mạch Nhâm,một mạch Đốc,12 đường Kinh chính,cộng thành 14 Huyệt Kinh.có 365 đường Kinh Lạc và 666 đường Kỳ Huyệt.Hệ thống Kinh,Mạch,Huyệt ,Lạc tiếp nhận Thiên khí,Địa khí,Thời khí,có tính chất Âm Dương Ngũ hành.Nhờ hệ thống trên,ta có thể tìm đến các chỗ đường Khí bị tắc mà đả thông cho thuận.Mỗi loại Bệnh tật đều có một số Huyệt liên quan để ta có thể kích thích khi có bệnh. 

2/Kinh :Là các đường dẫn Khí từ Huyệt nọ tới Huyệt kia.Các đường đó đi lắt léo,chồng chất qua rất nhiều chỗ;liên đới với các đường Kinh khác theo tính chất Âm Dương ,Ngũ hành,liên vận đến cả với Trời đất mà biến động sự sống,tinh thần con người,vì vậy mà gọi là Kinh. 

3/Mạch :Nó là các Nguồn Mạch có Gốc chính đi ra.Nó đi khắp nơi,phân chia ra nhiều chỗ cần thiết,đến tận cùng của mọi nơi và sau lại trở về với chính Gốc. 

4/Lạc: Nó là các đường của Kỳ huyệt , nhiều hơn Kinh, Mạch, nhỏ hơn nhiều. Nó đi ngang, tắt ,chằng chịt, chi chít, khó tìm hơn. Nó giúp cho con người điều hòa Tâm sinh lý rất tốt, nó thường hay xuất hiện theo chu kỳ, dùng để định Tâm, an Lạc. Có lẽ vì vậy mà người ta dùng chữ An lạc? 

Các đường Kinh lại chia ra các đường Kinh nội và ngoại. 

*Nội kinh là phần kinh của 14 đường Kinh,Mạch chính,quan hệ với Tạng phủ,chuyển dần sang các chi nhánh,Kinh Cân Âm và Kinh Cân Dương.Nội Kinh liên quan đến các tương quan,phản xạ,phát sinh Ngoại giao cảm,giữa Linh hồn,Vía,Phách và thể xác. 

* Ngoại Kinh :Là những kỳ huyệt để bổ xung cho các Kinh chính ,khi cần thiết dùng cho lúc nguy cấp.Ví dụ cụ thể như :có người đã bị chết lâm sàng,tiêm,chích thuốc theo Tây Y không được,nhưng dùng Đông Y có khi chỉ cần bấm,day,châm,cứu Huyệt thì bệnh nhân có thể sống lại được.Có rất nhiều kỳ Huyệt mà tùy trường hợp có thể hút Linh hồn của người mới chết ,trở về nhập vào cơ thể.Ngoại Kinh bao gồm cả nội quan thân thể.Có nhiều Kỳ huyệt nhạy bén,rất công hiệu,có thể cứu mệnh con người,trong nhiều trường hợp nguy cấp .Đời thường từ xưa đã từng chữa bệnh cứu người bằng phương pháp này,song họ vẫn cho đó là Thần bí. 

Tóm lại có 2 Mạch chính là Nhâm,Đốc ;12 đường Kinh chính,15 đường Mạch Lạc,và vô số Huyệt. 

Xin nói thêm về Huyệt :Có các Huyệt hợp và các huyệt Giao hội, đó là các giao hội với các Kinh Dương và âm.Có các loại Huyệt là Du huyệt,Mộ huyệt,Nguyên huyệt,Lạc huyệt,Khích huyệt.. 

Trong Võ thuật còn truyền lại các Huyệt Thần đạo Võ thuật.Theo người viết được biết :Có 36 Huyệt đạo Kinh, nếu vô tình hay hữu ý tác động vào thì bất cứ Huyệt nào trong số 36 Huyệt này đều có thể gây ra chết người .Các Huyệt đó rất nguy hiểm nên còn gọi là tử Huyệt. Ngoài ra còn có 72 Huyệt đạo Kinh phụ. Nếu tác động vào bất cứ Huyệt nào trong số những Huyệt này đều có thể gây tàn phế , tật nguyền, rất khó chữa trị. Đây là yếu hại Huyệt hay còn gọi là Nạn Kinh. Người viết chỉ sơ qua vài nét về Thần đạo Võ thuật cho dễ hiểu thêm về tầm quan trọng của Huyệt với Linh hồn và cơ thể con người. Khi tác động vào tử Huyệt ,các yếu hại Huyệt chính là bất ngờ dùng lực phá hủy hệ thống Kinh , Mạch, làm tan rã các kết nối giữa Linh hồn và cơ thể con người.Các hệ thống khác như Kinh, Mạch, Huyệt, Lạc,gắn kết lục phủ , ngũ tạng của cơ thể lập tức bị rối loạn,mạnh thì dẫn đến tử vong ,nhẹ thì dẫn đến tàn phế,tật nguyền, rất khó chữa trị. Thần đạo Võ thuật gọi là Huyệt đạo kinh có liên hệ đến các Luân xa. 

Theo nguyên lý "Con người là tiểu Vũ trụ "thì Âm Dương ,Ngũ hành được phản ánh trong Đông Y rất rõ rệt.Các đường Kinh thứ nhất :Can -Đởm,Tâm -Tiểu trường,Tỳ -Vị,Phế -Đại trường,Thận -Bàng quang là năm cặp đại diện cho Ngụ hành.Ngòai ra còn hai đường Kinh bổ xung là Kinh Tâm bào và Kinh Tam tiêu.Tổng cộng 12 Kinh gọi là đường Kinh chính.Hai đường Kinh Tâm bào và Tam tiêu không có thành phần riêng của mình nên phải lấy từ các thành phần khác làm thành phần của mình. 

Mặt khác Kinh Tam tiêu đượ
c xem là Cha của các đường Kinh Dương,còn Kinh Tâm bào được xem là Mẹ của các đường Kinh Âm. 

Kinh Tâm bào có nhiệm vụ đặc biệt là bảo vệ Kinh Tâm. 

Kinh Tam tiêu có nhiệm vụ đặc biệt là làm sứ giả của Mệnh Môn Hỏa.Mang Mệnh Môn Hỏa đến các vùng Thượng tiêu, Trung tiêu, Hạ tiêu. 

Các đường Kinh được chia ra làm hai nhánh :Nhánh trái thuộc Dương (đối ứng với bán cầu não Phải ),nhánh phải thuộc Âm ( đối ứng với bán cầu não trái ). 
Từ đó các Huyệt được chia ra :Huyệt phía trái thuộc Dương,Huyệt phía Phải thuộc Âm. 
Từ Lý thuyết về Đông Y như trên ta theo nguyên lý Thiên - Địa - Nhân hợp nhất rút ra Lý thuyết trong Phong thủy áp dụng cho Long ,mạch như sau: 

Thuyết Phong thủy với cả hai phần Âm và Dương trạch quan niệm con người có quan hệ hữu cơ với Trời ,Đất, cả khi sống và cả sau khi chết (Huyệt mộ có thể ảnh hưởng đến nhiều đời con cháu sau này ). 

1/Về Thiên :Chấp nhận có Sinh khí giáng xuống (gọi là Dương giáng ) trên các đỉnh núi cao.Thừa nhận ảnh hưởng của các Vì Sao ảnh hưởng đến con người.Sự tương tác của các lực vũ trụ ảnh hưởng theo thời gian,với con người khác nhau.Ảnh hưởng theo chu kỳ của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời,được đại diện bởi Cửu tinh đồ xoay chuyển theo Quỹ đạo của HÀ ĐỒ (không như quan niệm của cổ văn chữ Hán từ trước đến nay là theo quỹ đạo LẠC THƯ -Khi có điều kiện người viết xin trở lại vấn đề này).Phải chăng 9 Sao và Hạn (La hầu,Thổ tú,Thủy diệu,Thái bạch,Thái dương,Vân hớn,Kế đô,Thái âm,Mộc đức và Tam kheo,Ngũ hộ,Thiên tinh,Toán tận,Thiên la,Địa võng,Diêm vương,Huỳnh tuyền )ảnh hưởng tuần hòan theo chu kỳ sinh học của con người là Đại lượng đo lường ảnh hưởng sự tương tác của 9 hành tinh trong Hệ Mặt trời đối với con người.Còn Cửu tinh đồ là đại lương đặc trưng của sự tương tác các hành tinh trong Hệ Mặt trời với từng cuộc đất. 

Ngòai ra còn ảnh hưởng của hệ Nhị Thập Bát tú tới từng cuộc đất. 

2/Về Địa :Chấp nhận có Sinh khí (Còn gọi là Long )chảy theo các mạch nước,tụ lại,và THĂNG lên (bởi lẽ Âm thăng,Dương giáng ).Ta thử suy luận một chút về danh từ THĂNG LONG :Đó là khí Âm thăng lên -THĂNG LONG.ĐÂY MớI THỰC LÀ Ý NGHĨA CỦA DANH TỪ THĂNG LONG (chứ không như người ta đồn đại Vua Lý Công Uẩn thấy Rồng bay lên và đặt tên kinh đô là THĂNG LONG ).Ta cũng nói thêm rằng Khí làm cho Kinh đô THĂNG LONG phát triển mạnh mẽ về sau này là Khí Âm -Địa khí . 

3/Về Nhân :Có thể xác định được Âm phần,Dương phần,Họa,Phúc,Mệnh,Thân của từng con người. 

Bây giờ xin các bạn nhìn lên Bản đồ Việt nam phần Bắc bộ. 

Các bạn hãy đánh dấu vào các địa danh sau: Trước hết là các dãy núi cao vút của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình,tới dãy Tam đảo ,dọc theo sông Tô lịch ngày xưa,đi tiếp tới Cổ loa,kéo dài đến sông Đuống,sông Thái bình,ra tới Quảng ninh và chìm xuống Vịnh Hạ long.Ta nối tất cả các điểm trên thành một đường.Đường cong đó chính là nhánh Thanh long của đồng bằng Bắc bộ.Theo phân tích ở phần trên ta biết rằng Thanh long thuộc Dương.Đây cũng chính là một Long mạch có hành Khí Dương .Các Huyệt nằm trên nhánh Thanh long đều có hành khí Dương. 

Bây giờ ta tiếp tục đánh dấu những địa danh sau :Xuất phát cũng từ những dặng núi cao chót vót của các tỉnh Lai châu,Sơn la,Hòa bình ,đi tới dẵy núi Ba vì,qua cầu Hàm Rồng,theo sông Lam và dẵy núi Hồng lĩnh đổ ra biển.Nối các địa danh đó lại thì đường cong đó chính là nhánh Bạch Hổ của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ thuộc Âm,do vậy Long mạch này có hành khí Âm.Các Huyệt nằm trên nhánh Bạch hổ đều có hành khí Âm. 
Đến đây ta đã có thể hình dung được hai nhành Thanh long, Bạch hổ của Đồng bằng Bắc bộ. Nhánh Thanh long sau sự Trấn yểm của Cao biền và sau này là sự san ủi của người Pháp đã bị bế Khí rất nhiều.Tuy nhiên do sự sai lầm của Cao biền về độ số của cung Đoài nên sự trấn yểm đó không hoàn thiện.Theo các cổ thư chữ Hán ,cung Đoài có độ số là 7 -ứng với phương Tây .Đây là độ số của Lạc thư.Chính vì vậy mà Cao biền mới Trấn yểm 7 cây cọc,theo đúng độ số của phương Tây.Tuy nhiên ,theo hiểu biết của người viết và kết hợp với một số kinh nghiệm của một số tiền bối về Phong thủy ở vùng đất Phong châu ngày xưa (nay là tỉnh Phú thọ -Kinh đô của các Thời đại Hùng vương ) thì độ số của phương Tây không phải là như vậy.Theo người viết,trong các vấn đề về Phong thủy thực hiện trên trái đất này phải dựa vào Hà đồ và độ số của Hậu thịên Bát quái mới chính xác.Khi đặt độ số của Hậu thiên Bát quái lên Hà đồ ta có một vòng tương sinh theo chiều thuận kim đồng hồ .Theo chiều từ phương Bắc,Đông Bắc,Đông,Đông nam,...tới Tây,tây bắc và trở lại về Bắc ta có các độ số như sau :1-8-3-2-7-4-9-6.  

Ta vẩn biết rằng :1 -là hành Dương Thủy. 

6 -Là hành Âm Thủy. 
8 -Là hành Âm Mộc. 
3 -là hành Dương Mộc. 
2 -là hành âm Hỏa. 
7 -là hành Dương Hỏa. 
5 - là hành Dương Thổ. 
10 -là hành Âm Thổ. 
4 -là hành Âm Kim. 
9 -là hành Dương Kim. 

Theo chiều thuận kim đồng hồ ta có các hành tương sinh với nhau như sau :Thủy (6-1 )sinh Mộc (8-3 )sinh Hỏa (2-7 )sinh Thổ (10-5 )sinh Kim (4-9 ) và lại trở về hành Thủy.Tôi không đi sâu vào việc chứng minh Lý thuyết trên vì nó khác với tất cả các cổ văn chử Hán từ xưa cho đến tận ngày hôm nay.Điều quan trọng là nếu Cao biền ngày xưa biết được điều này,thì giờ đây có thể chúng ta chỉ còn nghe danh sông Tô lịch trong Huyền sử. 

Trở lại vấn đề trên sông Tô lịch,sau khi Cao biền Trấn,yểm dòng sông cứ càng ngày càng nhỏ lại,kết hợp với sự san lấp của người Pháp sau này,dòng sông Tô,trước chảy ra sông Hồng ở cửa Hà khẩu,nay bị chặn lại từ khúc Thụy khê ra tới sông Hồng.Kể từ đó sông Tô lịch phải đổi dòng chẩy ngược lại.Hiện nay sông Tô lịch chỉ còn chẩy từ khu vực Phường NGHĨA ĐÔ -QUẬN CẦU GIẤY -HÀ NỘI,theo thuận dòng chẩy (Ta nhớ lại sự kiện trước Thành Luy lâu có dòng Nghịch thủy ) chẩy ra sông Nhuệ và cuối cùng mới đổ ra lại sông Hồng.Như vậy hiện nay,dòng chẩy của sông Tô lịch đi theo nhánh Bạch hổ đã nêu trên (Thay vì chẩy theo nhánh Thanh long như ngày xa xưa ).Nhánh Thanh long thuộc Dương khí,đã bị ngăn,bế phần lớn nên từ khi đó cho tới nay chỉ có rất ít anh hùng hào kiệt được sinh ra ở khu vực dọc theo đường đi của nó.Ngược lại ,nhánh bạch hổ từ xưa cho đến nay ta chưa nghe có vụ trấn yểm nào được thực hiện,ngòai trường hợp cũng do Cao biền chê là vùng đất Thanh hóa,Nghệ an có một con rồng (Long mạch )nhưng bị què nên không tiến hành trấn yểm.Hai nhánh Thanh long và Bạch hổ có cùng nguồn xuất phát từ Tổ sơn,nay nhánh Thanh long bị chặn lại một phần lớn nên gần như toàn bộ Nguyên khí được dẫn theo đường nhánh Bạch hổ.Theo nhận xét của người viết,kể từ đó về sau này,Thành Đại la bị mất Dương khí nên chẳng bao lâu bị xóa bỏ và thay vào đó là Thành Thăng long được xây dựng dựa trên khí Âm của nhánh Bạch hổ.Ta cũng để ý thấy một điều rất rõ ràng rằng :Trải qua hơn một ngàn năm từ khi có sự Trấn yểm của Cao biền,các vị Vua,tướng tài giỏi,các bậc hiền tài của Đất nước đều có nguồn gốc từ các vùng đất thuộc nhánh Bạch hổ mà ra.Các bạn có thể kiểm chứng điều này qua Lịch sử. 

Tới câu hỏi cuối cùng trong bài viết này,người viết tự nhận thấy vượt quá khả năng của mình nên rất mong đợi sự đóng góp của các Cao nhân,tiền bối trong và ngoài nước, ngõ hầu có thể cứu lấy một dòng Nguyên khí của Đất nước.Các câu hỏi đó là :Sau khi rút đạo Bùa Trấn yểm của Cao biền lên,Nguyên khí bị thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với Thủ đô HÀ NỘI nói riêng và Đất nước này nói chung ???Có thể hàn lại Long mạch như Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã làm không ?Khi Long mạch đã được phục hồi sẽ xẩy ra hiện tượng gì tiếp theo ?Có thể lại xẩy ra hiện tượng sụt lở đất như ngày xưa không ? 

Còn rất nhiều câu hỏi tiếp theo chủ đề này.Người viết xin tạm dừng ở đây và mong mỏi sự đóng góp của tất cả những người có lòng thương yêu Quê hương xứ sở,thương yêu Đất THĂNG LONG ngàn năm văn vật,là món quà có ý nghĩa mừng Sinh nhật 1000 năm THĂNG LONG -HÀ NỘI. 

Trong bài viết,tôi có sử dụng một số Tài liệu của Gíáo sư NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG, ĐOÀN VĂN THÔNG, Ẩn sĩ PHƯỢNG -Nghệ an , Ẩn sĩ Lý Thiên Hương -Đức thọ Hà tĩnh và một số tài liệu của các Ẩn sĩ tỉnh PHÚ THỌ -Xin trân trọng cảm ơn 

Tôi đã xác minh lại nguồn tin này;Theo Thượng tọa Thích HUỆ Xướng -Chùa Giác Lâm _Quận Tân bình -TP.HCM :Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH đã viên tịch khoảng hơn một tháng sau khi làm lễ cúng HÀN LONG MẠCH tại sông Tô lịch,nguyên nhân chết theo Y học là xuất huyết não.Thượng tọa THÍCH VIÊN THÀNH là chủ trì chùa Hương. 

Giải thích thêm: Mỗi một Huyệt vị có thời gian đóng và mở riêng của nó -Tức là thời gian ứng nghiệm.Khi muốn tác động vào một Huyệt vị nào đó cần phải đúng thời gian đóng hoặc mở của nó mới có tác dụng.Khi dùng thủ thuật Trấn (đè lên )Yểm (Chôn xuống )cho thay đổi kết cấu của cả một vùng đất để có thể xây dựng cả một Kinh thành thì sự hiểu biết phải vô cùng chính xác.Tiếc rằng kinh nghiệm này không được phổ biến rộng rãi nên thất truyền lần lần . Mà đó cũng là một điều may mắn cho Nhân loại vì nếu ai cũng có thể làm được thì Trái đất chúng ta sẽ đi về đâu?Tuy nhiên trong Lịch sử cũng chỉ ra rằng có rất nhiều ngưởi có khả năng đó.Bạn có thể tham khảo trong các truyền thuyết Lịch sử -Tất nhiên vì chỉ có những người Trấn yểm mới biết,những sự việc được ghi nhận là do kể lại nên mất tính chất trung thực .Tuy nhiên ,không thiếu dẫn chứng trong lịch sử nhắc đi nhắc lại vấn đề đó. 

Tôi xin nêu thêm một vấn đề quan trọng có liên quan đến sự Trấn hoặc yểm sau này.Đó là hành Khí của khu vực bị Trấn yểm và độ số của nó.Theo nhận xét của riêng người viết,khu vực đó thuộc phía Tây của La thành nên có hành Khí là Dương kim và độ số của nó là 9.Như vậy ta cũng thấy rằng khi tiến hành trấn yểm,Cao biền cũng biết rất rõ điều đó ,chỉ có sai lầm về độ số của phương Tây .Theo sách cổ chữ Hán đến tận ngày hôm nay,phương Tây thuộc Kim và có độ số theo Lạc thư là 7.Đó là sai lầm cơ bản của cổ thư chữ Hán và tất nhiên khi ứng dụng thì Cao biền sẽ sai theo.Theo người viết được biết,tại một số vùng của đất Phong châu ngày xưa,các nhà Phong thủy vẫn áp dụng tính độ số khi ứng dụng những việc cụ thể trong Phong thủy theo Hà dồ và số của Hậu thiên Bát quái.Như vậy theo người viết,phương Tây có hành Khí Dương Kim và độ số là 9 mới chính xác.Lạc thư và độ số Tiên thiên Bát quái chỉ áp dụng cho những vấn đề có tầm vóc Vĩ mô như khi tính toán các dải Ngân hà,Thiên hà, có tầm vóc Vũ trụ.Để có thể trấn được khu vực bị hở của Long mạch,theo thiển ý của người viết,nên dùng hình thức Trấn -Tức là đè lên vùng bị hở theo đúng quy luật Âm dương Ngũ hành.Ta có thể dựng một cây cầu Sắt có 9 nhịp hay 9 cột sắt,hoặc có cái gì đó có biểu tượng cho số 9 đè lên khu vực đã rút đạo Bùa .Theo những tin tức gần đây nhất,sự phát sinh các việc kỳ lạ như đã nêu ở trên,cũng chỉ gói gọn như những việc đã xẩy ra.Như vây ta thấy rằng Long mạch không còn thoát Khí ra nữa.Nguyên nhân là Khu vực đó qua thời gian bị phong tỏa, bế Khí quá lâu (Gần 1200 năm ),luồng Nguyên khí đã có sự thay đổi,cũng không loại trừ đã có sự trấn,yểm lại của một số nhà Phong thủy tài ba giấu mặt.Tôi từng chứng kiến một vài lần khai mở những Huyệt đạo bị Trấn yểm của các nhà Phong thủy Việt nam ẩn danh.Ta cũng nhận thấy rằng (không biết có phải do trùng hợp hay không ):Kể từ ngày đạo Bùa được Khai mở,vùng dọc theo nhánh Thanh long đã phát triển rất mạnh mẽ.Từ rất lâu đời,các vùng này là khu vực Nông thôn lạc hậu,nay đã vươn mình trở thành hàng loạt khu chế xuất hiện đại.

Ghi chú :
Bài viết này không phải của chủ nhân Blog . Do sưu tầm và tổng hợp từ nhiều nguồn trên Net nên chưa tìm được tên tuổi của tác giả bài viết rất có giá trị trên . Tôi sẽ tìm và cập nhật sau .

Thứ Tư, 10 tháng 4, 2013

ĐỊNH MỆNH HAY TIỀN ĐỊNH


Ở vào lứa tuổi thanh thiếu niên nhiều bạn trẻ thường thắc mắc không biết cuộc đời của mình sau này sẽ như thế nào?  Mình làm gì ở trên đời này?  Mình giàu hay nghèo? Vợ (hay chồng) mình là người thế nào? Đẹp hay xấu, mập hay ốm, nghèo hay giàu, có tài gì không? vv... Những câu hỏi như vậy có thể sẽ lởn vởn trong đầu óc các bạn trẻ luôn mà không ai có thể trả lời rõ ràng cho các bạn được. Thật sự thì không phải chỉ những bạn trẻ mới thắc mắc về tương lai mà hầu hết mọi người đều có những câu hỏi về ngày mai ở trong đầu, nhất là quý bà. Khách hàng đông nhất của các thầy tướng số chiêm tinh là quý bà, ở Đông phương cũng như ở Tây phương.  Các ông thầy Tử Vi đẩu số, hay các thầy tướng số mà chúng ta thường gọi chung là thầy bói, có mặt ở cùng khắp mọi nơi trên thế gian, có thể nói cho chúng ta biết một số chi tiết về cuộc đời trong tương lai của chúng ta, hầu hết chúng ta đều giả định (assume) như vậy. Nhưng thật ra đó chỉ là sự suy đoán mà thôi. Lẽ dĩ nhiên là sự suy đoán như vậy có thể đúng mà cũng có thể sai. Nếu có đúng thì cũng chỉ đúng một cách tổng quát và nhiều nhất thì cũng đến bảy tám mươi phần trăm là cùng. Không ai có thể đoán trúng 100% tương lai của người khác và cũng không ai có thể đoán trước tương lai một cách rõ ràng chi tiết và thật sự cụ thể. Do đó mà sự tin tưởng ở thầy bói thầy tướng hay thầy Tử Vi cũng có phần giới hạn, nhất là vào thời đại khoa học tiến bộ này. Bói toán mang nhiều tính chất huyền bí, với ít nhiều mê tín, nên ít khi đi vào thế giới của nhửng người vô thần, hay những người chỉ tin ở khoa học. Vì nó tựa trên trực giác và tình cảm nhiều hơn là suy luận và lý trí cho nên nó thích hợp với quý bà nhiều hơn với quý ông, và lẽ dĩ nhiên là nó gần với những xã hội còn tôn sùng sự huyền diệu của đất trời hơn là những xã hội văn minh vật chất. 

Người Việt Nam, tuy đã tiến bộ văn minh theo khoa học Tây phương, nhưng còn nhiều tin tưởng ở định mệnh. Hầu hết người bình dân Việt Nam, từ Bắc vào Nam, đều tin ở số mạng. Tin ở số mạng, họ cũng tin ở lời thầy bói, vì thầy bói có thể nói cho người ta biết số mạng của mỗi người như thế nào. Tin vào định mệnh, tức là tin rằng mỗi người có một số mạng, và số mạng đó đã được định sẵn. Về nợ duyên chẳng hạn. Số có vợ đẹpï thì chắc thế nào cũng cưới được vợ có nhan sắc, cũng như số có vợ giàu thì chắc sẽ cưới được vợ có nhiều của cải. Số có chồng quyền quý thì chắc sau này sẽ gặp được chồng giàu sang có địa vị tốt ở trên đời. Nếu thật sự duyên tình của mỗi người đã được định sẵn như vậy rồi thì mình có thay đổi được không? Theo người xưa ở Đông phương cũng như bên trời Tây thì không làm sao sửa đổi được. Nhà Nho thường nói : “Tử sinh hữu mạng, phú quý tại thiên” tức là sống chết đều có số, giàu sang được là do bởi Trời chớ không phải mình muốn mà được, thậm chí có nhà Nho cho rằng “nhất ẩm nhất trác giai do tiền định” có nghĩa là từ cái uống cái ăn của mình, cái gì cũng đã được định sẵn cả. Trong vấn đề hôn nhân thế nào cũng phải có duyên nợ với nhau mới được. Khi hai người có duyên nợ với nhau thì hai người đó sẽ bị ràng buộc chặt chẽ với nhau cả đời bởi một sợi dây vô hình nào. Họ sẽ phải gặp nhau, thương yêu nhau, thành vợ chồng và ăn ở với nhau đến trọn đời. Sợi dây vô hình đó nhà Nho gọi là dây tơ hồng của Nguyệt Lão. Câu chuyện sau đây cho thấy sự trói buộc của tơ hồng. Ngày xưa có một anh học trò tên là Vi Cố. Một đêm kia Vi Cố đi chơi về, trông thấy một ông lão đầu tóc bạc phơ, tay cầm một nắm chỉ hồng. Lấy làm lạ, Vi Cố bèn hỏi ông lão là ai và cầm nắm chỉ hồng đó để làm gì? Ông lão trả lời cho Vi Cố biết ông là Nguyệt Lão còn nắm chỉ kia được gọi là tơ hồng. Vai trò của Nguyệt Lão là xe duyên, nghĩa là dùng dây tơ hồng mà buộc chặt hai người với nhau. Khi hai người được tơ hồng buộc chặt lại thì họ sẽ trở thành chồng vợ, ăn ở với nhau đến trọn đời. Nghe vậy Vi Cố rất lấy làm thích thú nên hỏi thêm Nguyệt Lão xem Nguyệt Lão đã xe duyên Vi Cố với ai? Nguyệt Lão cho biết là đã xe duyên cho Vi Cố với cô con gái, con của mụ đi ăn xin ở ngoài cổng chợ. Câu trả lời của Nguyệt Lão làm cho Vi Cố vô cùng phẩn uất. Tại sao lại có thể như thế được? Một người học trò giỏi với một tương lai đầy hứa hẹn như Vi Cố thì tại sao lại phải đi cưới con của một kẻ ăn xin hèn hạ về làm vợ? Vi Cố quyết không chấp nhận duyên phần hẩm hiu đó.  Vi Cố bèn nghĩ đến cách  làm thế nào để triệt tiêu người con gái kia đi. Thế là đêm hôm đó Vi Cố lo mài dao chờ đến sáng hôm sau thi hành thủ đoạn. Hôm sau Vi Cố xách dao ra chợ tìm thấy mẹ con mụ ăn xin, chém một dao vào cô con gái của mụ này rồi bỏ chạy trốn qua một xứ khác sinh sống. Mươi năm sau Vi Cố thi đậu ra làm quan và đi cưới con gái của một ông viên ngoại về làm vợ. Một hôm thấy trên vai vợ có vết sẹo Vi Cố hỏi vì sao cô vợ lại có vết sẹo ở trên vai như vậy. Cô vợ nói thật cho Vi Cố biết là ngày xưa cô là con của người đàn bà đi ăn xin ở ngoài cổng chợ. Một hôm bỗng có kẻ lại chém cô. May mà cô không chết. Sau đó cô được ông viên ngoại thương xin về làm con nuôi. Thành ra khi duyên đã định rồi thì dù Vi Cố có cố tránh né cũng không thoát được.

Số mạng hay tiền định không phải chỉ có ở hôn nhân, duyên nợ mà thôi, mà còn có ở trên mọi phương diện, mọi khía cạnh của cuộc đời. Trời định số của Tư Mả Ý chưa chết thì dù Khổng Minh có tài giỏi đến đâu cũng không thể giết được Tư Mả Ý. Rốt cuộc Khổng Minh phải buộc miệng than: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, có nghĩa là tính toán, mưu đồ là việc của con người, nhưng thành hay không là bởi tại Trời mà thôi.

Câu chuyện sau đây cho thấy bàn tay định mệnh hết sức kắt khe của ông Trời. Ngày xưa có một nhà sư trụ trì trong một ngôi chùa. Một hôm nọ nhà sư để ý thấy cái đèn treo giữa chính điện làm như bị mất dầu nhiều quá. Nhà sư nghi ngờ là có kẻ lấy trộm dầu của nhà chùa nên nhà sư bèn rình thử xem sao. Quả đúng như nhà sư nghĩ, giữa khuya có hai người từ trên nóc chùa trổ xuống lấy cắp dầu của chùa. Nhà sư bèn la lên, và hai người kia năn nỉ xin nhà sư tha tội cho họ. Nhà sư hỏi họ là ai? Tại sao lại lấy cắp của nhà chùa? Hai người kia cho nhà sư biết họ là hai vị thần làm sổ sách ở trên thiên đình. Gần đây phải làm sổ sách nhiều quá nên phải làm cả ban đêm mới kịp, và vì làm ban đêm nữa nên thiếu dầu và phải đi lấy trộm của nhà chùa. Nghe nói vậy nhà sư cũng lấy làm lạ, bèn hỏi hai người kia làm sổ sách gì mà nhiều thế? Hai người kia nói nhỏ riêng cho nhà sư biết là họ ghi tên vào sổ những người sẽ phải chết trong công cuộc nổi loạn của Hoàng Sào sau nầy. Nhà sư hỏi có phải Hoàng Sào là đứa chăn trâu trước cổng chùa của nhà sư đó không? Hai người kia trả lời :”Phải.” Nhà sư  hỏi tiếp vậy chớ kẻ nào là kẻ đứng đầu sổ những người sẽ chết trong cuộc nổi loạn đó. Hai người kia buồn rầu trả lời :”Kẻ đó là nhà sư.” Tuy không tin lắm nhưng nhà sư cũng phòng xa, cho nên hôm sau nhà sư tìm Hoàng Sào cho nó đủ thứ đồ ăn rồi dặn nó rằng sau nầy khi nào nó làm loạn thì nó nhớ cho nhà sư hay để nhà sư tìm nơi an toàn ẩn tránh. Hoàng Sào hứa sẽ làm đúng như lời nhà sư dặn bảo. Về sau Hoàng Sào nổi loạn thật, và khi sắp sửa làm lễ tế cờ khởi loạn nó không quên lời dặn của nhà sư. Nó tìm đến nói rõ cho nhà sư hay là ngày mai nó sẽ làm lễ tế cờ nổi loạn chống triều đình. Nhà sư muốn đi tránh xa nhưng lại tiếc cảnh chùa của mình. Nhìn trước sau thấy trước sân chùa có cái bộng cây khá kín đáo, nhà sư bèn chui vào bộng cây trốn đỡ. Khi làm lễ tế cờ Hoàng Sào tuốt gươm ra nhìn quanh quẩn tìm vật gì để chém nhác gươm đầu tiên làm lệnh. Thấy quanh đó chỉ có cái cây to Hoàng Sào bèn thẳng tay bổ một nhác thật mạnh. Cái cây bị đứt ngang và cái đầu của nhà sư cũng bị văng ra lìa khỏi cổ. Nhà sư là người chết đầu tiên trong cuộc nổi loạn của Hoàng Sào đúng như lời tiết lộ trước của hai vị thần ăn cắp dầu của nhà chùa. Trời đã định như vậy rồi thì không chạy đâu cho khỏi.

Bên trời Tây xưa kia người ta cũng tin ở thứ định mệnh tuyệt đối như vậy. Câu chuyện Oedipe trong thần thoại Hy Lạp là một bằng chứng. Ngày xưa vua thành Athenes khi vừa sinh hoàng tử Oedipe thì bèn đi xin một quẻ ở đền Delphi xem đứa nhỏ sau nầy sẽ ra sao. Thần linh báo cho biết là đứa nhỏ đó, tức là Oedipe, khi lớn lên sẽ giết cha nó và sẽ cưới mẹ nó làm vợ. Nghe lời báo chẳng lành nhà vua bèn sai quần thần đem đứa bé vứt ngoài đồng vắng cho nó chết đi. Oedipe bị bỏ rơi ngoài đồng nhưng nó không chết, nó được bọn người chăn chiên đem về nuôi dưỡng. Lớn lên Oedipe mạnh mẻ, khôn ngoan hơn người, nhưng nó không biết rõ nguồn gốc hoàng gia của mình. Một hôm trên đường vào Athenes nó phải đối đầu với nhà vua từ phía trước đi tới. Nhà vua buộc tội nó là đứa thất phu không biết tránh đường cho vua đi. Nó phẫn uất vì thái độ kẻ cả của nhà vua. Một cuộc so kiếm xãy ra, và Oedipe đã nhanh tay giết chết nhà vua. Oedipe đã giết chết cha ruột của mình mà không biết, đúng như lời thần linh báo trước. Cùng lúc đó ở ngoài cửa thành Athenes có một con quỷ đầu người mình sư tử , gọi là con Sphinx, xuất hiện. Sphinx cho biết là nó sẽ rời bỏ chỗ đó nếu có người trả lời được đúng câu hỏi của nó, người nào trả lời sai sẽ bị giết chết.  Những người ra vào cửa thành đều bị nó giết chết vì họ không trả lời đúng câu hỏi của nó đặt ra. Vì nhà vua đã bị giết chết thành ra quyền nhiếp chính lúc đó ở trong tay người anh của bà hoàng hậu. Ông nầy treo bảng thông báo là hễ người nào trả lời đúng để cho con quỷ Sphinx bỏ đi thì người đó sẽ được làm vua ở Athenes và sẽ được cưới bà hoàng hậu. Oedipe tình nguyện đi gặp Sphinx. Câu hỏi của Sphinx là: Con vật gì buổi sáng đi bốn chân, buổi trưa đi hai chân, và buổi chiều đi ba chân? Oedipe trả lời : Đó là con người. Buổi sáng là lúc nhỏ vì phải bò nên coi như đi bốn chân, buổi trưa là lúc lớn lên thì đi hai chân, và buổi chiều tức lúc tuổi già thì phải chóng gậy nửa nên kể như đi ba chân. Oedipe đã trả lời đúng, con Sphinx bỏ đi. Oedipe trở thành vua xứ Athenes, và được cưới bà hoàng hậu làm vợ. Oedipe đã cưới bà hoàng hậu tức mẹ ruột của mình làm vợ đúng như lời báo của thần linh trước đây. (Nhà phân tâm học Sigmund Freud đã dùng tên Oedipe để đặt tên cho cái mặc cảm mà ông đã khám phá ra về tình cảm của con cái đối với cha mẹ. Theo ông con gái thương cha và ghen ghét với mẹ và con trai thương mẹ và ghen ghét với cha bởi trong vô thức người ta mang khuynh hướng tự nhiên đó mà ông gọi nó là mặc cảm Oedipe. Freud đã mượn câu chuyện thần thoại này để nói về mặc cảm nói trên).  

Thuyết định mệnh tuyệt đối, khắt khe theo cái nhìn của con người thuở xưa như đã thấy trên đây không dành cho con người ở trên cõi đời này một chút tự do nào. Con người cũng chẳng có chút giá trị gì cả vì nó chỉ là trò chơi của định mệnh, một thứ định mệnh hết sức khắt khe, đưa đẩy con người đến chỗ tột cùng của đau khổ mà không do lỗi của mình, cũng không có một chút quyền vùng vẫy tránh né. Nhà sư kia có tội gì đâu, tại sao phải chịu chết trước nhất trong cuộc nổi loạn của Hoàng Sào? Oedipe có tội gì? Tại sao định mệnh bắt Oedipe phải giết chính cha mình và cưới chính mẹ mình làm vợ? Chúng ta thấy thật là phi lý cho thứ định mệnh tuyệt đối khắt khe đưa đến thân phận đau đớn vô nghĩa (fatalism) của con người. Ai có quyền lực và khả năng ấn định trước định mệnh khắc nghiệt đó cho con người? Và tại sao lại quá khắc nghiệt như vậy cho một số người này trong khi đó lại quá chiều đãi một số người khác? Tại sao cho một số người giàu có sang trọng quá nhiều trong khi đó lại bắt những kẻ khác phải chịu cảnh nghèo đói khổ sở quá sức? Tại sao lại cho một số người có nhan sắc có sức khỏe và ngược lại một số những người khác xấu xí, bệnh tật ốm đau? Tại sao Trời cho một số người tài giỏi, thông minh, và một số người khác đần độn, bất tài, ngu ngốc? Nếu có Thượng Đế, và nếu Thượng Đế đã làm công việc đặt để ra số phận của mỗi người theo như chúng ta đã thấy trên đây thì Thượng Đế có bất công không? Ngay cả việc Thượng Đế tự mình sinh ra con người ngoài ý muốn của con người cũng đã là một bất công phi lý rồi. Có ai muốn mình được sinh ra không? Nói một cách khoa học thì không ai muốn cả vì trước khi sinh ra đời mình đã có hiện hữu đâu để mà muốn. Cho nên một nhà Nho trước kia đã nổi loạn chống lại mệnh Trời qua bài thơ sau đây:

“Tích ngã vị sinh thì,
Minh minh vô sở tri.
Thiên công hốt sinh ngã,
Sinh ngã phục hà vi?
Vô y sử ngã hàn,
Vô phạn sử ngã cơ.
Hoàn nhỉ thiên sinh ngã,
Hoàn ngã vị sinh thì.”    (Khuyết danh)
(Ý nghĩa của bài thơ này là:
Ngày xưa, trước khi tôi bị sinh ra đời,
Mịt mù đen tối, tôi nào biết chi đâu.
Bỗng nhiên Trời sinh tôi ra trên đời này,
Trời sinh tôi ra để làm chi?
Không quần áo chi cả khiến cho tôi phải lạnh,
Không cơm ăn khiến cho tôi phải đói.
Tôi xin trả lại cho ông Trời cái việc Trời sinh ra tôi,
Và xin Trời hãy trả lại cho tôi cái trạng thái lúc tôi chưa sinh ra đời.)


Bị sinh ra đời đã là một chuyện ngoài ý muốn của con người rồi. Sinh ra để chịu đói, chịu rét, chịu mọi thứ khổ sở thì còn ngoài ý muốn của con người nhiều hơn nữa. Vậy mà con người vẫn bị sinh ra, vẫn phải chịu tất cả nỗi khổ đau ở trên đời. Nếu muốn mà được thì không ai muốn sinh ra đời để chịu khổ. Nếu muốn mà được thì chắc ai cũng muốn mình được sinh ra trong gia đình sang trọng giàu có, ở trong một xã hội tiến bộ văn minh, đầy đủ tiện nghi, trong thời đại hòa bình thịnh vượng nhất ở trên thế gian nầy. Chớ đâu có ai muốn sinh ra trong một gia đình nghèo khổ ở một xã hội chậm tiến, vào một thời kỳ loạn lạc chiến tranh!

Tính cách phi lý trong thuyết định mệnh khắt khe tuyệt đối trên đây khiến cho một số các nhà tôn giáo và triết lý khác không chấp nhận. Một số nhà hiền triết đã nhìn sự kiện định mệnh một cách khác hơn. Ấn giáo (Hinduism), Phật giáo và đạo Kỳ Na (Jainism) quan niệm con người có tự do, có nhiều kiếp sống, có luật nhân quả. Mọi người đều có quyền tự do và tự quyết (free will). Mỗi người tự chọn lựa, tự quyết định những hành động của mình không do một quyết định nào từ bên ngoài. Chính hành động đó là nguyên nhân (hay nghiệp theo chữ của nhà Phật) sẽ đưa đến những hậu quả của nó. Hậu quả đó có thể xảy ra liền trong kiếp này hay có thể xảy ra trong kiếp khác. Thành ra định mệnh không gì khác hơn là hậu quả của những gì mình đã tạo ra (nghiệp) trước đó. Bạn cố gắng tu hành, làm nhiều việc thiện trong kiếp này là bạn đã tạo dựng một định mệnh tốt đẹp cho kiếp sau của bạn vậy. Thuyết định mệnh theo ý nghĩa đó đã được các nhà nho tóm tắt trong câu :”Dục tri tiền thế nhân, kim sinh thụ giả thị; Dục tri lai thế quả, kim sinh tác giả thị.”(có nghĩa là: muốn biết trong kiếp sống trước mình đã làm những gì thì hãy nhìn xem hiện tại trong kiếp này mình đang được hưởng những gì; Muốn biết trong kiếp sau mình sẽ được hưởng nhử ng gì thì hãy nhìn xem trong kiếp sống hiện tại mình đang làm được những gì) . Theo thuyết này thì con người có nhiều kiếp sống: kiếp trước, kiếp này, và kiếp sau.  Mỗi kiếp sống gồm có hai phần: một phần là kết quả của kiếp trước và một phần là nguyên nhân của kiếp sau. Thí dụ anh A được sinh ra trong một gia đình giàu có sang trọng, lại được thông minh học giỏi nên anh A học thành tài đỗ đạt cao, có địa vị lớn trong xã hội, hưởng nhiều may mắn hạnh phúc sung sướng trên đời. Nhưng vì quá giàu sang danh vọng anh A thường khinh thường người nghèo khó, lại nhiều khi có những hành động hà hiếp kẻ dưới tay, và đôi khi không tránh được một số những việc làm độc ác cốt để làm giàu thêm cho cá nhân mình.

Trong kiếp sống hiện tại của anh A ta thấy có hai phần: một phần là những gì anh đang thụ hưởng và một phần khác là những gì anh đang làm. Phần anh đang được thụ hưởng là phần được sinh ra trong một gia đình giàu có sang trọng, lại thông minh, được may mắn thành công và hưởng nhiều hạnh phúc sung sướng ở đời. Phần này là kết quả của những việc làm có thể là rất tốt, rất thiện, rất đạo đức của anh hồi kiếp trước. Tuy nhiên phần anh đang làm trong kiếp này như khinh người, hiếp đáp kẻ khác, có những hành động độc ác, thì những việc làm xấu xa đó là nguyên nhân của một kiếp sau có thể là sẽ rất hèn hạ khổ đau. Kiếp sau có thể anh A sẽ phải sinh ra trong gia đình nghèo khó, lại có thể không đủ khôn ngoan, không có cơ hội học hành, phải sống cuộc đời nghèo khổ bị nhiều người khinh bỉ, vv..... Tóm lại theo thuyết này thì con người có hoàn toàn tự do, và có đầy đủ trách nhiệm về cuộc sống của mình. Mình làm tốt mình được hưởng kết quả tốt, mình làm ác mình sẽ phải gánh lấy hậu quả xấu xa trong tương lai. Tốt hay xấu là hoàn toàn do nơi mình mà thôi chớ không có một áp lực nào từ bên ngoài. Thuyết này được nhiều người chấp nhận và áp dụng ở ngoài đời. Trong thực tế ai cũng biết là khi ta đối xử tử tế, lịch sự, tốt đẹp đối với những người chung quanh ta thì dĩ nhiên ta cũng sẽ được nhiều người đối xử tử tế, lịch sự, và tốt đẹp lại. Ngược lại nếu ta có những hành vi không ra gì đối với những người chung quanh ta thì khó mà mong rằng người ta thương mến, đối xử tốt với mình. 

Thực tế cho thấy không ai chịu tốt bụng để cứ đối xử tốt đẹp mãi với một người đã có lối xử sự không ra gì đối với mình. “Bánh sáp đi, bánh quy lại” cũng như “ăn miếng thì trả miếng”, tức là”oeil pour oeil, dent pour dent” như người Pháp nói. Mặt khác, thuyết này hoàn toàn trái ngược với thuyết tiền định khắc nghiệt ở bên trên. Hai thuyết này là hai thái cực, hoàn toàn trái ngược nhau. Một bên thì cho rằng con người không có một chút tự do, một chút quyền nào cả, tất cả đều do tiền định; còn một bên thì cho con người có hoàn toàn tự do hoàn toàn có quyền lựa chọn quyết định mọi hành động của mình không có ai hay cái gì ở ngoài chen vào.

Một số tư tưởng gia khác đã đưa ra một thuyết thứ ba để dung hòa bằng cách bao gồm cả hai thuyết trên. Thuyết thứ ba này cho rằng “Có Trời mà cũng tại ta” như Nguyễn Du đã viết trong Đoạn Trường Tân Thanh. Trời định bao nhiêu, ta định bao nhiêu không thấy nói. Chỉ thấy nói “Đức Năng Thắng Số” hoặc làm phải, làm phước thì có thể cải số được. Thuyết này có vẽ hữu lý đối với phần đông người đời. Nó có vẽ thực tế và có thể đáp ứng đúng lòng mong mỏi của nhiều người. Ai cũng mong muốn là mình có thể làm chút gì đó để xin Trời xét lại, thương cho mình và cho mình được sống cuộc đời đỡ khổ hơn, hoặc sung sướng hơn. Thậm chí có người còn có thể nói :”Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều,” (Nguyễn Du) có nghĩa là xưa nay quyết định của người ta cũng thắng được quyết định của Trời cũng nhiều. Thật sự làm sao mà biết được trường hợp nào là trường hợp “nhân định thắng thiên”? Và người ta thắng được quyết định của Trời (định mệnh) bao nhiêu lần mà gọi là nhiều? Truyện cổ có kể chuyện anh học trò mấy lần cải số của mình nhưng những lần cải đổi đó đều do Trời cho sửa lại số của anh ta chớ không phải là tự anh ta làm trái với số Trời đã định mà có thể thắng số Trời được. Chuyện kể có một anh học trò kia hằng ngày trên đường đi học phải đi ngang qua một con chó đá. Hôm nọ khi anh ta đi ngang qua thì thấy con chó đá hả miệng cười với anh ta. Anh học trò lấy làm lạ bèn hỏi: “Hằng ngày ta đi ngang đây chưa bao giờ ta thấy nhà ngươi cười cả, sao hôm nay nhà ngươi lại cười với ta vậy?” Chó đá trả lời: “Hôm nay tôi cười là để mừng ông vì ông vừa được Trời cho ghi tên ông vào danh sách những người thi đậu trong kỳ thi tới. Được vậy là nhờ ông học hành siêng năng lại ăn ở hiền lành nên Trời thương mà cho như vậy.” Anh học trò nghe vậy lấy làm mừng rỡ bèn về thưa lại với cha mình. Ông cha nghe con mình sắp sửa thi đậu làm quan nên bắt đầu tỏ ra hống hách với xóm làng. Dân làng phẫn uất lắm nhưng không dám nói vì sợ lãnh hậu quả không tốt khi người con ông kia thi đậu thật. Tuy nhiên việc làm xấu xa của ông cha đã làm cho Trời bực mình. Trời liền thay đổi ý, cho sửa số ông con lại là thi hỏng chớ không phải là thi đậu nữa. Liền sau khi Trời cho sửa số lại thì con chó đá không thèm cười với anh học trò nữa. Thấy chó đá bổng trở lại lãnh đạm với mình, anh học trò hỏi nó tại sao hôm nay nó không cười mừng anh ta nữa? Chó đá trả lời là vì người cha của anh học trò hống hách, làm nhiều điều tội lỗi nên Trời đã bôi tên anh học trò trong sổ những người thi đỗ rồi. Anh học trò nghe vậy buồn rầu về thưa lại với cha. Ông cha nghe nói rất lấy làm hối hận. Hai cha con liền lo tu tĩnh, làm lại việc thiện, tạo nhiều phước đức để chuộc tội. Họ làm như vậy một thời gian sau thì Trời lại thương tình nên cho cải đổi số anh học trò một lần nữa để cho anh ta thi đậu trong khóa tới nữa. Một hôm đi ngang chó đá anh học trò thấy chó đá bắt đầu cười lại với anh ta. Hỏi ra thì biết là nhờ ở sự ăn năn tu tỉnh làm nhiều điều phước đức của hai cha con mà Trời thương và cho sửa đổi số lại một lần nữa. Lần nầy anh học trò cố giữ kín tin nầy, không dám cho ông bố biết. Ông cha không hay biết gì cứ tiếp tục ăn năn, tiếp tục làm việc thiện cho đến ngày ông con thi đỗ thật sự và ra làm quan cho triều đình. Qua câu chuyện này ta thấy người ta vẫn quan niệm rằng số mạng vẫn do Trời định, chớ con người chẳng có sửa đổi gì được. Con người chỉ có thể làm lành, cầu khẩn để xin Trời sửa số lại mà thôi. Quyết định cuối cùng cũng vẫn là Trời. Phần “tại ta” cũng có nhưng vẫn phải tùy thuộc rất nhiều ở Trời. Thành ra câu “đức năng thắng số” hay “nhân định thắng thiên” thật sự không đúng, đáng lý ra phải nói “đức có thể động lòng Trời để Trời cho sửa số lại” mới phải.   
             
Khoa đẩu số của Tây phương cũng như khoa Tử Vi ở Đông phương đều nhận là có định mệnh nhưng định mệnh không do Thượng Đế hay ông Trời sắp đặt mà do hệ thống tinh đẩu phân bố, phối trí lúc con người được sinh ra đời. Hệ thống tinh đẩu này có ảnh hưởng lớn lao trên cuộc đời của mỗi người. Khoa đẩu số Tây phương thì tựa trên ngày tháng sinh của mỗi người mà định ra 12 phạm trù đẩu số là Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn, Aquarius, và Pisces. Theo thời gian tác động của các hành tinh như Jupiter, Saturn, Sun, Moon,...trên các loại tuổi kể trên đưa đến những vận hạn hên xui may rủi cho mỗi người. Các nhà chuyên môn về đẩu số sẽ tựa trên sự vận chuyển và tác động của các hành tinh mà giải đoán số phận của con người. Khoa Tử Vi của Đông phương thì tựa trên giờ sinh, ngày sinh, tháng sinh và năm sinh của mỗi người mà phân bố các sao làm thành lá số Tử Vi và các nhà chuyên môn về Tử Vi sẽ tựa trên lá số đó mà giải đoán số mạng của mỗi người. Tử Vi có tất cả 110 (hoặc 111) vì sao được phân bố trên 12 ô (gọi là 12 cung) tùy theo ngày giờ sinh, mỗi sao có một ý nghĩa, một tác động trên vận hạn hay trên một khía cạnh  nào đó của một đời người. Những sao đó có thật hay không? Nếu có thật thì tên khoa học của nó là gì, nó ở vị trí nào trong không gian, sự vận hành của nó thế nào? 

Tại sao nó gây ảnh hưởng như vậy khi nó ở vị trí này và ảnh hưởng khác hơn khi ở vị trí khác? Thật là phức tạp, thật là rắc rối khi đi sâu vào Tử Vi. Nó không giản dị như nhiều người tưởng. Tựa trên căn bản nào mà người xưa thiết lập ra khoa đẩu số này? Ở đâu mà có những vì sao chính như Tử Vi, Thiên Phủ, Thiên Tướng, Vũ Khúc, Liêm Trinh..., ở đâu mà có những sao như Hóa Quyền, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Thiên Khôi, Thiên Việt, Đào Hoa, Hồng Loan.... Tại sao đã có Thái Dương, Thái Âm mà còn thêm Thiếu Dương, Thiếu Âm, có Đại Hao lại còn thêm Tiểu Hao? Tại sao lại thường có đôi như Địa Không-Địa Kiếp, Kình Dương-Đà La, Hỏa Tinh-Linh Tinh, Thiên Khôi-Thiên Việt, Tả Phù-Hữu Bật, Ân Quang-Thiên Quý, Tam Thai-Bát Tọa...? Thật ra nếu ta đi tìm căn bản khoa học cho khoa Tử Vi thì ta sẽ thất vọng ngay. Nhưng nếu ta dùng trực giác để tìm hiểu và chiêm nghiệm thì ta thấy nó có ý nghĩa đặc biệt liên hệ mật thiết với vũ trụ quan trong triết học Trung Hoa ngày xưa. Các vì sao trong Tử Vi đều có tính cách tượng trưng. Mỗi sao mang một số ý nghĩa liên hệ tới một số sự việc thường xảy ra trong đời sống của con người. Các sao lại vận chuyển theo các chu kỳ lớn nhỏ, ăn khớp với nhau, bổ túc lẫn nhau, hoặc xung phá với nhau, gây ảnh hưởng tốt hoặc xấu cho mỗi người. Có vận chuyển theo chu kỳ tức là có lúc lên lúc xuống, lúc may lúc rủi, lúc thành công lúc thất bại, lúc đắc lúc ế. vv.  Cứ theo vận chuyển, theo chu kỳ, năm tuổi chẳng bao giờ cũng khá hơn năm tuổi lẽ (tính tuổi ta), như  những năm 18, 20, 32, 34 tuổi ...khá hơn những năm 19, 21, 31, 33...Những năm chia chẳng cho 4 sau khi trừ bớt 1 đều là những năm tương đối khá tốt vì là những năm tam hạp. Nhưng theo kinh nghiệm của người đời thì đây là những năm có thể xấu vì đó là những năm tuổi của mình. Những năm gọi là năm tuổi thì theo kinh nghiệm của ông cha đều là những năm có rắc rối không nhiều thì ít. Đó là những năm 13, 25, 37, 49, 61, 73, 85, và 97. Thật ra không phải tất cả những năm tuổi đều xấu, nó còn tùy ở những sao khác trong Tử Vi của mỗi cá nhân.
 
Nếu tựa trên bản số đầy đủ (có đủ giờ, ngày, tháng, năm sinh) với 110 vì sao thì các nhà chuyên môn về khoa Tử Vi có thể cho biết khá nhiều chi tiết về tính tình, về gia đình, nghề nghiệp, tiền của, con cái, cùng những lúc lên xuống trong cuộc đời của một người. Người ta có thể đi sâu vào từng thời kỳ (10 năm) hay đại hạn, từng năm hay tiểu hạn, từng tháng tức nguyệt hạn, hay từng ngày tức nhật hạn. Xem cẩn thận và đầy đủ cho một người như vậy rất công phu, đòi hỏi phải để nhiều thì giờ nghiên cứu, nghiền ngẫm. Thường mỗi đầu năm các nhà bói toán hay cho biết những nét chính rất tổng quát về vận số của những người cùng một tuổi với nhau. Khi đoán tổng quát như vậy người ta không tựa trên bản số đầy đủ 110 vì sao được. Người ta chỉ có được khoảng 50 phần trăm số sao đó thôi, và 50 phần trăm này lại là 50 phần trăm ít quan trọng hơn là số 50 phần trăm không có được (vì thiếu giờ, ngày, và tháng sinh). Cho nên phần đúng của lối đoán tổng quát này cũng không được chính xác lắm. Có thể nói là bị đau, nhưng đau nhiều hay ít, nặng hay nhẹ, có trị được không thì thật khó nói. Có thể thấy có may mắn về tình duyên, nhưng nhiều hay ít, có đưa đến kết quả gì không thì khó mà nói được cho chính xác. 

Nền tảng của Tử Vi và đẩu số Tây phương là sự liên hệ mật thiết giữa một số các tinh đẩu trên trời và vận mệnh của con người. Theo cái nhìn của nhà đẩu số thì con người có một định mệnh và định mệnh đó do vũ trụ tự nhiên đại diện bởi các vì sao quyết định. Tuy chấp nhận có định mệnh nhưng khoa đẩu số không quan niệm định mệnh một cách khắt khe bất biến như thuyết định mệnh tuyệt đối khắt khe đã thấy ở phần đầu. Tử Vi vẫn cho con người một chút co giãn trong vấn đề định mệnh. Các nhà Tử Vi chuyên môn vẫn khuyên người ta làm lành để được tai qua nạn khỏi, hoặc được giảm bớt những sự không may. Đây cũng là một hình thức tin tưởng là vừa có định mệnh mà cũng vừa có phần tham dự của con người. Có một ít người cho rằng Tử Vi giống như một khoa học hơn là loại bói toán có tính cách dị đoan. Thậm chí đã có người muốn áp dụng phương pháp toán học hay thống kê học vào khoa Tử Vi. Ông Nguyễn Phước Lộc, trong quyển Tử Vi hàm số của ông, đã quan niệm Tử Vi như một hàm số theo dạng f(X)=Y. Thật sự nếu chúng ta biết đúng và tìm được cách tính điểm đúng các vì sao khi phối hợp lại với nhau thì chúng ta có thể phát biểu thành phương trình multiple regression trong khoa thống kê học để tìm ra hậu quả được. Tuy nhiên cho đến giờ phút này khi chưa có một đo lường chính xác về các ảnh hưởng của các vì sao và cũng không có định luật nhất định phát biểu thành công thức nên chúng ta chưa có thể xem Tử Vi như một khoa học được.  

Trở lại vấn đề định mệnh ta thấy ngoài các thuyết kể trên, một vài khoa học cũng quan niệm có một loại tất định (determinism) trong số phận con người. Khoa sinh vật học cho biết mốt bộ phận trong nhiễm sắc thể kiểm soát sự di truyền gọi là gene là đầu mối của thân phận một người. Người ta khôn ngoan hay ngu đần, người ta mạnh khỏe hay bệnh hoạn là do cái gene mà ra, mình có muốn cũng không được. Đâu có ai muốn bị cao máu hay tiểu đường hay bệnh tim đâu, nhưng mình có thể mang mầm mống của những thứ bệnh đó trong cái gen e của mình vì trong gia đình đã có người có bệnh như vậy rồi. Tính cách di truyền trong cái gene là một hình thức tiền định rồi vậy. Khoa tâm phân học cũng dành cho sự tất định một chỗ đứng khá quan trọng. Những hành đông của chúng ta có vẽ như là những hành động có ý thức, có cân nhắc, tính toán và quyết định, nghĩa là có tự do của mình. Nhưng theo các nhà tâm phân học thì thật sự phần lớn các quyết định là do vô thức mà ra. Trước kia ông Nguyễn Bách Khoa đã áp dụng phân tâm học để phân tích hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều xem đó như là một hành động do vô thức chi phối. Đó là hành động rất đúng với lời nói của Nguyễn Du, một thứ hành động do “ma đưa lối quỷ dẫn đường” chỉ có thể cắt nghĩa được bằng ảnh hưởng của vô thức mà thôi, một vô thức với dẫy đầy những hình ảnh lưu lạc,gian truân, phong trần, bạc mệnh.


Tất cả những thuyết trên, kể cả các thuyết khoa học đều không cho ta biết chắc có hay không có định mệnh. Rốt cuộc chúng ta vẫn thấy mơ hồ không biết thật sự có tiền định hay không? Thật sự có định mệnh hay không?  Và nếu có định mệnh thì định mệnh của con người do ai định? Và làm sao để biết được định mệnh? Đó là những câu hỏi gắn liền với thân phận làm người từ xưa đến giờ. Bao giờ loài người còn, thân phận làm người không thay đổi, thì những câu hỏi trên đây vẫn còn. Và đó là những câu hỏi không bao giờ có câu trả lời dứt khoát.