Có bao giờ chúng ta nghe từ miệng một vị
thiền sư dạy Đạo cho môn sinh như thế này chưa:
Này chư tử! Thuở còn trai trẻ, làm kiếm khách áo trắng, ta ít khi rút kiếm
ra khỏi bao, rút ra là phải chém. Hàng tục sĩ gọi ta là Kiếm vương.
Này chư tử! Thuở còn trai trẻ, làm giang hồ kỳ thủ, ta ít khi chơi cờ. Khi
đã chơi, một quân cờ đặt xuống – trọng lượng một quả núi – sẽ kết thành định
mệnh. Định mệnh không lập lại hai lần. Dòng sông đã chảy, vậy thì những quân cờ
kế tục đi đến chung quyết. Không do dự. Không ngập ngừng. Người đời gọi ta là
Kỳ vương.
Này chư tử! Kiếm vương ta cũng bỏ. Kỳ thủ ta cũng lìa, khoác tay nải, dép
cỏ, nón mê lang thang học Đạo. Ba mươi năm chí thú tinh cần mới thấy được cửa
vào. Mười năm lên núi sâu thiền tu, tịch mặc. Sở chướng đã trừ. Mê lầm đã
tuyệt. Núi cũng là núi. Sông cũng là sông thôi. Kiếm vương kia thành Kiếm đạo.
Kỳ vương kia thành Kỳ đạo. Tại sao như thế?
Này chư tử! Nay ta có mấy lời tâm huyết, như dao chém đá, như kiếm xuyên
mây. Hãy nghe mà lập tâm lập hạnh. Đốt cháy kiến hoặc, dội tắt nghi tình, vào
chốn ngũ trần mà thong dong tự tại.
Hãy nghe đây! Phàm người tu Phật, một niệm phóng đi, tác thành nghiệp báo.
Vậy hãy như tay Kiếm vương kia, chớ có khinh suất mà ra chiêu, đừng cho ý tưởng
tự do khởi động. Khi ngưng tụ sinh lực. Lúc buông xả nghỉ ngơi. Hãy xuất niệm
như xuất kiếm.. Đã xuất là phải đạt.
Này chư tử! Phàm người tu Phật, phải tinh luyện tư duy, khổ hạnh tư duy.
Một tư duy đặt trên đối tượng. Một tư duy dẫn dắt hành động. Phải như tên Kỳ
thủ kia, một quân cờ đặt xuống, trọng lượng một quả núi. Dòng sông không chảy
hai lần. Đừng do dự. Đừng ngập ngừng. Quân cờ đặt xuống là tác thành định mệnh,
tác thành nhân quả, nghiệp báo.
Này chư tử! Hãy xuất cờ! Hãy xuất niệm! Hãy xuất kiếm! Bước tới! Không
ngoảnh đầu! Không có sinh tử giữa dòng chảy trôi liên lỉ! Không có sau trước
giữa vòng tròn vô thỉ, vô chung!
Bài giảng kia đã từ một tu viện thâm u trên núi cao, đâm xuyên qua mấy
đỉnh mây mù, băng tuyết, rơi xuống, cắm vào giữa lòng các đô thị. Người ta tỉnh
giấc, bàng hoàng. Ngàn năm Phật giáo kinh điển, từ chương, thụ động, tiêu cực,
đắm say bùa chú, hương khói vật vờ; chơût đứng dậy, vươn cao, nắm định mệnh
mình bước đi như thớt voi lâm trận, hùng dũng ho to, cánh sát cánh, vai sát
vai…; ánh lửa trí tuệ bùng lên, thổi sinh khí, đem cái đẹp, sức mạnh và tự do
tối thượng cho con người.
Phật giáo từ thời Khâm Minh Thiên Hoàng, đến đây, hậu bán thế kỷ XV, sống
lại, mang cơ thể mới, tinh thần mới, dẫn Nhật Bản đi vào thời đại phú cường.
Công lao ấy có ai ngờ rằng, có sự đóng góp từ trí tuệ của một người: thiền sư
Dai-so-kim! Ngài tịch năm 1491, nơi một am thất nhỏ ở Keti phía nam Tây hải đạo.